|
Chính các thiên thần đă hiện ra kêu gọi các mục đồng đến thờ lạy Chúa,
và đă hát lên lời ca tụng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, và b́nh an
dưới thế cho người Chúa yêu thương”.
Các thiên thần là ai vậy? Tại sao lại khoác cho các ngài áo trắng, có
đôi cánh, có mái tóc vàng hoe? Tại sao người ta thường chọn các thiếu nữ
làm thiên thần mà ít khi chọn các nam nhi? Thiên thần thuộc phái nữ hay
phái nam?
Trong tiếng Việt, ngoài từ thiên thần, c̣n có thiên
sứ, sứ thần. Nói một cách ngắn gọn, thiên thần là thần trên trời.
Tôi nghĩ từ này đă có trong Việt ngữ trước khi Phúc Âm được truyền bá
đến nước ta. Quan niệm dân gian tin có rất nhiều thiên thần, thổ thần,
thần hoàng. Các thần ấy có thể là những loài thiêng liêng ở trên trời,
trong cung điện của Ngọc Hoàng, nhưng cũng có thể là các danh nhân trở
thành “thần”. Đó là chưa nói đến các “quỷ thần”, tác oai, tác quái. Có
thể nói quả quyết rằng tại hầu hết các dân tộc trên thế giới đă có sự
tin tưởng vào thần thánh, trước khi có mặc khải của Thiên Chúa cho dân
riêng của Ngài trong Cựu ước và Tân ước. Và v́ vậy, chúng ta thấy Kinh
Thánh cả Cựu ước và Tân ước phải cố gắng để sửa chữa những quan niệm
b́nh dân cho thích hợp với đức tin.
Cha có thể cho vài thí dụ được không?
Chúng ta có thể lấy một ví dụ từ Cựu ước và một ví dụ từ Tân ước. Các
ngôn sứ Cựu ước phải cố gắng bài trừ những quan niệm đa thần, để nhấn
mạnh đến niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, tạo thành muôn vật. Trong
Tân ước, đặc biệt là các thư của thánh Phaolô, người ta nhận thấy Giáo
Hội ban đầu phải đương đầu với những chủ trương cho rằng Đức Kitô c̣n ở
dưới các thiên thần.
C̣n chính quan niệm của Kinh Thánh về các thiên thần th́ sao?
Như đă nói, trong tiếng Việt, chúng ta c̣n có từ thiên
sứ hay sứ
thần. Hai từ này sát với quan niệm Kinh Thánh hơn. Kinh Thánh không
chú trọng lắm đến h́nh thù hay bản thể của các thiên thần cho bằng đến
sứ mạng của các Ngài. Các ngài được gọi là “sứ giả của Thiên Chúa”, được
Chúa sai đến để thi hành một sứ mạng nào đó. Tuy nhiên đây chỉ là tư
tưởng khái quát, chứ khi đi sâu vào các bản văn, th́ quan niệm về các sứ
thần có phần phức tạp hơn, xét v́ mặc khải không chỉ xảy ra trong đôi ba
tháng, mà kéo dài trong một lịch sử hàng bao thế kỷ, với những khung
cảnh môi trường tôn giáo và văn hoá khác nhau. Do đó người ta nhận thấy
có sự tiến triển không những giữa Cựu ước và Tân ước, mà cả giữa những
giai đoạn đầu của lịch sử dân Do thái với những giai đoạn cuối gần ngày
Chúa sinh ra đời. Điểm khác biệt của Cựu ước gây không ít thắc mắc cho
các nhà chú giải ở chỗ cụm từ sứ
thần của Thiên Chúa không
những chỉ áp dụng cho những sứ giả được sai đi thi hành sứ mạng, nhưng
c̣n ám chỉ chính Thiên Chúa nữa. Theo một số học giả, lối nói ấy chịu
ảnh hưởng của một quan niệm quá siêu việt về Thiên Chúa: Ngài quá uy
nghi cao cả, xa cách con người; bởi vậy khó có thể nghĩ đến việc Ngài
trực tiếp can thiệp đến thế giới con người, nếu không phải là qua các sứ
giả, tức là một sự cá thể hoá những ưu phẩm của Thiên Chúa. Về sau, do
ảnh hưởng của tôn giáo ở Babilon, mới có sự phân biệt rơ ràng hơn về các
vị thiên sứ, nghĩa là những vị, hoặc được chầu chực trước nhan Chúa,
hoặc được phái uỷ thi hành một công tác nào đó. Chính vào giai đoạn này
mà người ta đặt tên cho một số vị, như Micael (ai bằng Thiên Chúa),
Gabriel (sức mạnh của Chúa), Raphael (linh dược của Chúa).
C̣n trong Tân ước th́ sao?
Có thể nói rằng trong Tân ước cũng có sự tiến triển. Khi thuật lại cuộc
đối thoại của Chúa Cứu Thế, các Phúc Âm lấy lại một số quan niệm của Cựu
ước, như thiên sứ Gabriel truyền tin cho Đức Maria, hoặc như các thiên
sứ báo tin cho các mục đồng trong đêm Giáng Sinh, hoặc đến an ủi Chúa
trong vườn Cây Dầu. Trong các bài giảng Chúa Giêsu cũng nói đến các
thiên sứ như là những người chầu chực Thiên Chúa, hoặc ǵn giữ các trẻ
thơ, hoặc triệu tập nhân loại vào ngày chung thẩm. C̣n thư của thánh
Phaolô, như đă nói ở trên, nhấn mạnh đến vị trí của các thiên sứ với các
đẳng cấp khác nhau, đều ở dưới Đức Kitô. Trong các sách Tân ước, có lẽ
sách Khải Huyền nói đến các thiên sứ nhiều hơn cả trong vai tṛ ca tụng
chầu chực Thiên Chúa trên thiên cung. Tuy nhiên trong hai chương đầu,
thánh Gioan có nói đến bảy thiên sứ của bảy giáo đoàn: các học giả ngày
nay cho rằng các thiên
sứ nói ở đây ám chỉ đến
các giám mục.
Kinh Thánh có nói đến các h́nh dáng thiên sứ ra sao không?
Trong các bức tranh thiên thần, chúng ta thường thấy các hoạ sĩ vẽ các
ngài với đôi cánh, tóc quăn, xem ra thuộc nữ giới. Thực ra Kinh Thánh
không nói đến h́nh thù của các thiên thần. Khi các ngài hiện ra, như
thiên sứ Raphael hay Gabriel, xem ra các vị có h́nh thù người nam. Tuy
nhiên đó chỉ là những kiểu nói và h́nh ảnh nhằm thích ứng với thực tại
của nhân loại. Trên thực tế, các thiên thần chẳng thuộc giới nam hay
giới nữ. Thiên sứ Raphael xuất hiện như người nam v́ giữ vai tṛ hướng
đạo cho cậu Tôbia, nên cần có h́nh dáng một người khoẻ mạnh. Các h́nh
ảnh tượng trưng thiên sứ Micael chiến đấu với ma quỷ cũng dùng đến h́nh
ảnh của một binh sĩ, một nam nhân. C̣n khi muốn tŕnh bày vẻ đẹp của các
thiên thần, th́ dĩ nhiên các hoạ sĩ mượn khuôn mặt của các thiếu nữ; đôi
cánh muốn nói lên sự linh động mau mắn trong việc chu toàn sứ mạng; c̣n
tấm áo trắng nói lên sự trong trắng tinh tuyền, không những khỏi tội lỗi
nết xấu mà c̣n khỏi vật chất nữa. Dù sao, những suy tư về bản chất của
các thiên thần bắt đầu với thời các Giáo Phụ, và chín mùi với các nhà
thần học thời Trung Cổ, đặc biệt là thánh Tôma Aquinô, quen gọi là “tiến
sĩ thiên thần”.
Những h́nh ảnh mà các hoạ sĩ vẽ ra cũng như những trang suy tư của các
nhà thần học đều nhằm giúp tŕnh bày đức tin Công giáo với tầm hiểu biết
của con người. Thế th́ đức tin Công giáo nói ǵ về các thiên thần?
Như trên đă nói, mặc khải về các thiên thần trong Kinh Thánh tiến triển
qua nhiều giai đoạn, và phần nào tuỳ theo khung cảnh tôn giáo và văn hoá
của từng thời đại. Ta cũng có thể nhận xét tương tự như vậy về giáo huấn
của Giáo Hội về các thiên thần. Giáo hội không tŕnh bày một thiên khảo
cứu có hệ thống về các thiên thần nhưng chỉ xác định những điều phải tin
khi có một nguy cơ nào đó đưa đến lạc giáo. Những tuyên bố quan trọng
nhất của Giáo Hội xảy ra ở Lateranô IV (1215) và Firenze (1442). Điều
xác quyết căn bản là bên cạnh những loài có xác thể, Thiên Chúa c̣n dựng
nên những loài thiêng liêng nữa, tựa như các thiên thần và linh hồn.
Thoạt đầu, xem ra chân lư ấy chỉ nhằm chống lại những thuyết duy vật,
không biết thực tại nào khác ngoài thế giới hữu h́nh. Tuy nhiên khi lồng
trong bối cảnh lịch sử, th́ những chân lư vừa nói nhằm chống lại những
thuyết nhị nguyên, cho rằng có hai thế giới tuỳ thuộc vào hai nguyên uỷ
biệt lập: một bên là thế giới của linh thiêng do Thiên Chúa tạo thành,
gồm cả các thiên thần. Bên kia là thế giới của vật chất, do ác thần chỉ
huy: hai nguyên uỷ ấy luôn giao tranh chống đối nhau. Đối lại với thuyết
ấy, Giáo Hội dạy rằng, tất cả các loài thụ tạo, dù là thiên thần hay ác
thần, dù là thiêng liêng hay vật chất, đều ở dưới quyền của một Thiên
Chúa tạo thành duy nhất. Các thiên thần là loài thiêng liêng không có
xác thể. Giáo Hội không đi sâu hơn vào các chi tiết khác.
Để kết luận, tin hay không tin các thiên thần có ảnh hưởng ǵ đến đời
sống đạo?
Dĩ nhiên, đối với người Kitô hữu, tin vào Đức Kitô là Thiên Chúa làm
người ở giữa chúng ta th́ quan trọng gấp trăm ngàn lần tin nơi các thiên
thần. Tuy nhiên, khi bàn về các thiên thần, các Giáo Phụ không ngừng lặp
lại rằng: Thiên Chúa yêu thương chúng ta dường nào, Ngài sai các thiên
thần là một loài cao cả hơn chúng ta, đến giúp đỡ chúng ta trên đường lữ
hành. Các thiên thần biểu lộ ḷng yêu thương săn sóc của người Cha đối
với từng người chúng ta.
Lm. Giuse Phan Tấn Thành