Đáp:
1-
Tôi đã nỗ lực tìm các bản văn của Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II nói về Thiên Đàng và Hỏa Ngục vào năm 1999 như bạn
nói, nhưng tiếc quá tôi không gặp ở đâu cả. Nếu bạn có bạn có thể cho tôi
xin bản văn. Giả như Đức chân phước Gioan Phaolô II có tuyên bố như thế thì
cũng chẳng sai, bởi cụm từ thiên đàng và hỏa ngục không nói về một nơi chốn
nhưng nói về một trạng thái. Chúa Giêsu cũng chỉ minh định có sự hiện hữu
của hai trạng thái thiên đàng và hỏa ngục (x. Lc 23, 43 và Mt 5, 29), chứ
Chúa không mô tả thiên đàng ở 9 tầng mây, hỏa ngục ở trong lòng đất. Giáo lý
Công giáo số 1025 cũng chỉ dạy rằng: “Sống trên thiên đàng là ‘ở với Đức
Kitô’. Những người được tuyển chọn sống ‘trong Người, nhưng ở đó họ vẫn giữ,
thậm chí họ tìm được căn tính của mình, danh xưng của mình”, còn số 1035,
Giáo lý nói về hỏa ngục như sau: “Đạo lý của Hội Thánh khẳng định có hỏa
ngục và tính vĩnh cửu của hỏa ngục…. Hình phạt chủ yếu của hỏa ngục cốt tại
muôn đời bị tách rời khỏi Thiên Chúa…”. Như vậy Giáo lý Công giáo cũng đâu
có nói thiên đàng ở 9 tầng mây, hỏa ngục ở trong lòng đất!
Riêng về bí mật thứ nhất ở Fatima, chi Lucia viết : “Đức Mẹ
đã tỏ cho chúng con thấy một biển lửa lớn, dường như ở dưới lòng đất.
Ma quỉ và các linh hồn dưới hình người bị chìm ngập trong lửa này…”
Đây là một thị kiến, ba trẻ được chỉ cho thấy hỏa ngục, nơi các linh hồn tội
lỗi chịu cảnh trầm luân, và qua thị kiến các em cảm thấy hỏa ngục “như
là ở dưới lòng đất” chứ không xác định hỏa ngục ở
trong lòng đất.
2-
Hội thánh công bố đạo lý
đức tin về Luyện ngục chủ yếu qua hai Công Đồng Florentinô và Triđentinô.
Đạo lý nầy trước tiên dựa vào một số bản văn Kinh Thánh nói đến lửa thanh
luyện: 1 Cr 3, 15; 1 Pr 1, 7. Kế đến, đạo lý nầy cũng dựa trên tập quán cầu
nguyện cho những người quá cố, điều này đã được Kinh Thánh nói đến: 2 Mcb
12, 46.
3-
Tín điều về Đức Maria trọn đời đồng trinh
có nghĩa là Đức Maria đồng trinh trước khi sinh (virginitas ante partum),
trong khi sinh (virginitas in partu) và sau khi sinh (virginitas post
partum). Để hiểu tín điều này cách thấu đáo bạn cần nghiên cứu về Maria học
còn được gọi là Thánh Mẫu học. Ở đây tôi chỉ tóm gọn như sau: tín điều về
Đức Maria trọn đời đồng trinh trước tiên liên quan đến cứu chuộc học có
nghĩa là thời kỳ cứu độ mới trong lịch sử loài người được thực hiện, thời kỳ
ân sủng mới, thời kỳ này không phải được phát sinh bởi khả năng của lịch sử
loài người, nhưng bởi ý định ngàn đời của Thiên Chúa, bởi quyền năng của
Thần khí tạo dựng, Thần khí đem lại sự sống. Việc thụ thai bởi Thần khí của
Đức Maria là biểu tượng đích thực về thời kỳ ân sủng này, thời kỳ Thiên Chúa
hoàn tất lời hứa. Cho nên việc thụ thai mà vẫn còn đồng trinh của Đức Maria
nói đến việc Thiên Chúa can thiệp cách kỳ diệu vào trong lịch sử cứu chuộc
của Ngài, trong lịch sử này Ngài sẽ giải phóng nhân loại khỏi sự chết như là
hậu quả của tội. Thật vậy Đấng cứu chuộc nhân loại không ai khác chính là
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Việc nhận thức đặc tính Con Thiên Chúa của
Chúa Giêsu nói đến mối tương quan với sự đồng trinh của Đức Maria: Vì Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu không thể có một người cha trần thế
được. Vì là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu không thể được sinh ra từ một hôn
nhân bình thường, cho nên việc Người được sinh ra không là một thực tại
thuộc lãnh vực sinh lý học, nhưng là thuộc lãnh vực bản thể học, có nghĩa là
căn cứ vào chính bản thể Thiên Chúa của Người và mối tương quan ngôi vị Cha
- Con mà Người đã mặc khải. Từ đó chúng ta hiểu được việc Đức Maria thụ thai
mà vẫn đồng trinh là do quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Việc Maria đồng trinh trong khi sinh (virginitas in partu) đặc biệt
không nói đến hiện tượng sinh lý qua con đường sinh nở tự nhiên (như khai mở
con đường sinh nở, không làm tổn thương màng trinh và sự không đớn khi sinh
nở không xuất hiện), nhưng nhằm trình bày đến tác động cứu vớt và giải thoát
của ân sủng bởi Đấng cứu độ vượt trên bản tính tự nhiên con người, một bản
tính bị “tổn thương” vì tội nguyên tổ.
Khi nói “Giuse không biết bà cho tới khi bà sinh con đứa con trai” không có
mâu thuẫn với lời tuyên tín, vì ở đây tác giả đoạn văn muốn nhấn mạnh thân
thế Chúa Giêsu, Giuse quả thật không là người cha xác thịt của Chúa Giêsu.
Ngoài ra việc Thánh Kinh gọi “Anh chị em” của Chúa Giêsu, đó chỉ là cách
xưng hô Hy lạp và Aramen, và ngôn ngữ của nhiều nước khác cho tới ngày, nhằm
áp dụng cho “bà con ruột thịt trong đời thứ nhất và đời thứ hai” (x. Gen 13,
8; 14, 14; 24, 48). Vì thế, có thể khái niệm anh chị em này trong cộng đoàn
người Palestin đã được chuyển dịch từng chữ vào trong ngôn ngữ Hy lạp, cho
nên anh chị em ở đây được hiểu về trong quan hệ bà con nhiều hơn. |