Xin hỏi, Giáo Hội có chấp nhận
người Đồng Tính trở thành Linh Mục không? Khi một người Nam đồng
tính đã được phong chức Linh mục thì điều gì sẽ xảy ra nếu Linh
mục đó vẫn quan hệ với một người đàn ông trên mức tình cảm. Nếu
Giám mục giáo phận biết được việc này, Ngài sẽ làm gì? Nếu có
người thứ 3 biết việc này, mà không trình báo Giám mục thì có
phạm tội không? Rất mong nhận được câu trả lời từ Ban Biên Tập.
Nguyễn Khôi
|
Đáp:
Đồng
tính là một từ ngữ có thể hiểu các ý nghĩa khác nhau. Theo Sách
Giáo Lý Công Giáo, “Đồng tính luyến ái là những liên hệ giữa
những người nam hoặc những người nữ với nhau: họ cảm thấy sức
quyến dũ về tình dục một cách mạnh hơn hẳn, hoặc một cách độc
chiếm đối với những người cùng giới tính” (GLCG 2357). “Người
ta phải tránh tất cả những dấu hiệu của sự kỳ thị bất công đối
với họ “ (GLCG 2358). Giáo Hội không lên án “khuynh hướng”
nhưng vẫn luôn chủ trương rằng “hành vi đồng tính” “là
những hành vi suy đồi nghiêm trọng, thác lọan từ bản tính của
chúng, nghịch với luật tự nhiên” (xem GLCG 2357). Luật của Giáo
Hội không minh nhiên cấm những người có khuynh hướng đồng tính
vào chủng viện, tuy nhiên: “Giám mục giáo phận chỉ nên thâu nhận
vào Đại chủng viện những người nào, xét theo các đức tính nhân
bản và luân lý, đạo hạnh và trí tuệ, sức khỏe thể lý và tâm lý
cùng ý muốn ngay thẳng của họ, được coi là có đủ khả năng hiến
thân trọn đời cho các tác vụ thánh” (c. 241 §1). Vì các chủng
sinh cần được chuẩn bị sống độc thân, giữ sự khiết tịnh hoàn
toàn, nên những ứng sinh nào được xét là không thích hợp với bậc
sống ấy thì đều không được thân nhận.
Còn đối
với các vị đã lãnh nhận chức thánh linh mục thì Giáo Hội đã có
những qui định như: “một giáo sĩ tư tình [...] thường xuyên ở
trong tội nghịch giới răn thứ sáu và gây gương xấu, sẽ bị phạt
huyền chức. Và nếu sau khi bị cảnh cáo mà còn tiếp tục lỗi phạm,
cò thể bị phạt thêm dần dần những hình phạt khác nữa cho đến sự
khai trừ khỏi hàng giáo sĩ” (c. 1395 §1).
Vì “tất
cả các tín hữu, tùy theo điều kiện riêng mình, phải cố gắng hết
sức sống đời thánh thiện, và lo cho Giáo Hội được phát triển và
được thánh hóa liên lỉ” (c. 210), các tín hữu “có quyền, và
đôi khi kể cả bổn phận , bày tỏ cho các chủ chăn có chức thánh
biết ý kiến của mình liên quan đến lợi ích của Giáo Hội” (c.
212 §3), nếu ai biết có những sự đáng tiếc xẩy ra cần phải được
sửa chữa, thì phải cộng tác với những người có trách nhiệm để
ngăn chặn lại. Tuy vậy, “phải giữ sự kính trọng, kín đao đối
với các vị chủ chăn, đồng thời phải để ý tới công ích và phẩm
giá của người ta” (GLCG 907). Đó là trách vụ của mọi tín hữu.
. |