Kinh thánh André bắt đầu bằng câu: Lậy ơn ông
thánh André xưa đã quý mến Thánh giá là của châu báu cùng là ước ao cho
được chịu chết trên cây ấy cho nên đã được hưởng phúc vô cùng trên trời
đời đời. Lời kinh trên chính là tâm tình thánh nhân cầu xin trước giờ
chịu hành hình.
André và Phêrô là hai anh em. André gặp Chúa Kitô
trước và giới thiệu Đức Kitô cho anh mình. Sinh trưởng tại làng
Bethsaida, làng này vua Herod Philip đổi thành Julias trùng tên con gái
ông. Bethsaida là vùng đất mầu mỡ, khí hậu ôn hòa lại gần biển và là nơi
sản xuất những cây trái ngoại hạng quanh năm. Hơn hai ngàn năm sau, khí
trời, phong cảnh còn giữ được vẻ nguyên thủy thời thánh André.
André là môn đệ của Gioan Tẩy Giả. André quốc bộ
đoạn đường dài dọc theo thung lũng Giođan để theo Gioan. Phụ Gioan rửa
tội cho nhiều người. Sau này chính André làm công việc Gioan làm đó là
giới thiệu Đức Kitô cho người khác, như cho chính anh mình là Phêrô và
Philliphê. Khi nghe Gioan giới thiệu Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa Đấng
xóa tội trần gian. André từ giã Gioan theo chân Đức Kitô. Dù chưa chính
thức làm tông đồ nhưng cả bốn vị là Gioan thánh sử, André, Phêrô và
Philliphê theo Đức Kitô về Nazareth, tham dự tiệc cưới Cana và chứng
kiến phép lạ đầu tiên Chúa biến nước thành rượu ngon.
Phúc Âm Mathêu giới thiệu các tông đồ từng hai
người một, thường là hai anh em với nhau, hoặc hai bạn thân nhau. Có giả
thuyết giải thích chung đôi vì chèo hợp tay, chèo đồng điệu và đồng
chiều cao, ngồi đối diện nhau trong lúc chèo. Phêrô là thuyền trưởng và
cũng là chủ thuyền. André vóc dáng vạm vỡ, mặt dài và râu đen, rậm. Tính
tình hiền hòa, kiên nhẫn, nghe nhiều hơn nói và chỉ lên tiếng khi cần.
ĐỜI GIEO GIỐNG
Có ba truyền thống nói về cuộc đời truyền giáo
của vị tông đồ. Thoạt xem cả ba truyền thống có vẻ rời rạc, xa cách,
không thực tế nhưng nếu nhận xét kĩ lưỡng thì đường như cả ba đều có
điểm chung nói lên tinh thần dấn thân của André. Chính André đã đi bộ
nhiều dặm đường dọc thung lũng Giođan để tìm gặp Gioan Tẩy Giả và làm
môn đệ của vị tiên tri này. Cả ba truyền thống đều nhắc đến việc André
chịu tử vì đạo dưới tay quan toàn quyền Aegeates.
Truyền thống một cho là ngài khởi đầu truyền giáo
tại Giêrusalem sau đó đi sang vùng Scythia phía nam Liên Sô rồi vùng
biển Hắc Hải.
Truyền thống hai chứng minh Hy lạp là nơi nhà
truyền giáo sống, nhất là miền Macadonia. Tại đây thánh nhân đổ máu đào
làm chứng cho Thầy Chí Thánh.
Truyền thống ba lại nhấn mạnh đến cuộc sống của
ngài tại Ephesus, vùng Tiểu Á cùng với bạn nối khố lúc nhỏ là thánh
Gioan, tác giả sách Tin Mừng Gioan.
CHẾT VÌ TIN
Theo truyền thống hai tại Achaia André chữa bệnh
cho vợ quan toàn quyền Aegeates là bà Maximilla. Bà này khỏi bệnh tin
theo Chúa. Việc trên gây căm phẫn cho quan. Sự việc trở nên tồi tệ hơn
khi anh quan là Stratolles mời André chữa bệnh. Ông này trở thành tín
hữu nhiệt thành. Không thể nhịn hơn được Aegeates ra lệnh bỏ tù André
cho hả giận. Vợ và anh quan cảnh cáo ông giết người vô tội, người của
Thiên Chúa. Thâm tâm quan Aegeates muốn tha và năn nỉ André bỏ Chúa để
cứu mạng sống; trái lại André khuyên quan nên nhận đức tin để Chúa cứu
linh hồn.
Biết thầy gặp khổ nạn, anh quan là Stratolles
dùng uy tín của mình giúp André vượt ngục trốn đi. André đã không đi còn
khuyên Stratolles đừng làm trái ý quan. Trong tù André vẫn tiếp tục rao
giảng và số người tin theo ngày một nhiều. Tin này đến tai quan và quan
ra lệnh giết André cho khuất mắt. Ngày xử án kề bên André xin cho được
chết giống như Thầy Chí Thánh Giêsu. Lời yêu cầu được quan chấp thuận.
André vui mừng hát lên bài ca ca tụng thánh giá.
Chúa Kitô dùng chính cái chết mình thánh hiến
Thập giá châu báu. Thập giá được tay chân Chúa trang điểm thay nữ trang.
Tôi đến với thánh giá với tâm tư hoan lạc, thanh thản. Thập giá hãy
giang tay đón nhận tấm thân này. Thánh giá trở nên đẹp, tốt lành nhờ tứ
chi Chúa Kitô. Ta mến chuộng, chờ đợi, ước mong và tìm kiếm ngươi. Ta
tìm được ngươi và linh hồn ta trông đợi sẵn sàng. Hãy giang tay đón nhận
thân này, nâng ta lên khỏi kẻ phàm nhân và dâng Thầy Chí Thánh, Đấng sẽ
cứu chuộc ta.
Bài ca tụng thập giá thứ hai có cùng tâm tình
ngợi ca, hiến dâng. André hát xong gọi các kẻ hành hình tiến lại thi
hành lệnh quan. Quân lính tỏ vẻ ái ngại vì lòng ngưỡng mộ và quý mến. Họ
đứng xa tỏ vẻ tiếc thương André giục họ thi hành lệnh quan.
Theo yêu cầu của André họ không đóng đinh nhưng
cột chân tay ngài vào hai cột chéo hình chũ X. Từ ngày đó thập giá này
có tên là thập giá André. Để kéo dài cái chết trong đau khổ quan ra lệnh
cho chổng ngược đầu xuống đất. Toàn quyền Aegeates muốn André là nạn
nhân của chó hoang chắc chắn sẽ xé xác. André đầu dộng đất vẫn tươi cười
và không ngừng giảng đạo. Hai ngày sau ông vẫn tỉnh táo, đầu óc vẫn minh
mẫn và lời thuyết giảng vẫn mạch lạc. André đói khát nhưng những người
đứng đó được cho ăn no nê Lời Chúa. Kẻ mến ông kéo nhau đến phủ quan làm
áp lực xin tha cho người vô tội, người của Thiên Chúa. Aegeates dời phủ
ra pháp trường chứng kiến tận mắt. Ông đến gần thập giá cởi trói cho
André nhưng Andre khẩn van đừng tha vì từ lâu ông ước ao được vinh phúc
tử đạo, sống muôn đời bên Chúa. Lời xin tha thiết mong được chết trên
giường thập giá được chấp thuận.Vợ và anh quan là Maximilla và Stratola
nhận xác an táng. Không biết chính xác năm André qua đời nhưng các học
giả đồng ý vào cuối tháng 11 năm 69.
Năm 337 vua Constantine khởi công xây đền kính
các thánh tích tại Byzantium bên Thổ Nhĩ Kì. Vua cha qua
đời; vua con Constantius hoàn thành năm 356. Đền thánh có thánh tích của
các thánh Timôthy, Luca và André. Constantius dời đầu thánh nhân đến
Patros. Một số xương thánh được Regulus chuyển về Tô Cách Lan vào khoảng
thế kỉ thứ 4 hay 5. André là thánh bổn mạng của xứ này và thập giá André
là biểu tượng của dân tộc. Đầu thánh nhân lưu một nơi, phần thánh tích
khác cầm giữ tại Al Quirinal và phần thánh tích còn lại tại Amalfi.
Năm 1462 Đức Giáo Hoàng Piô đệ nhị chuyển đầu
ngài về đền thánh Phêrô để tránh bị tàn phá bởi đám giặc Turks. Năm 1964
Đức Giáo Hoàng Phaolô đệ lục chuyền giao đầu thánh nhân cho giáo chủ
tổng giám mục tại Constantinople, giáo hội Chính Thống tại Patras, Hy
lạp nơi thánh nhân được phúc tử vì đạo. |