“Được
xem như là vị Tông Đồ của người Hy Lạp”
VATICAN -Bài huấn đức Đức Benedict XVI trình bày trong buổi tiếp kiến
chung hôm nay, ngài đã dành bài huấn đúc này đễ suy niệm về “Anrê, the
Protoklitos.”
Anh Chị em thân mến:
Trong hai bài giáo lý cuối cùng chúng ta đã nói về gương mặt Thánh
Pherô. Bây giờ, trong mức độ những tài liệu cho phép, chúng ta muốn biết
11 tông đồ khác rõ hơn một chút. Do đó, hôm nay chúng ta nói về anh ông
Simon Pherô, tức là Thánh Anrê, ngài cũng là một trong Nhóm Mười Hai.
Điều ấn tượng trước hết người ta về Anrê là tên của ông: Tên đó không
phải là Dothái, như người ta tưởng, nhưng là tên Hy Lạp, biểu thị một sự
hiểu biết văn hóa của gia đình ông. Chúng ta đang ở tại Galilee, nơi
ngôn ngữ và văn hoá Hy lạp thật sự hiện diện.
Trong danh sách nhóm Mười hai, Anrê đứng thứ nhì trong Tin Mừng Mattheo
(10:1-4) và Luca 96:13-16), hay là đứng thứ tư, trong Marco (3:13-18) và
trong sách Tông đồ công Vụ (1:13-14. Trong bất cứ trường hợp nào, chắc
ông có một uy tín lớn trong những cộng đồng Kitô hữu sơ khởi.
Quan hệ máu giữa Pherô và Anrê, cũng như sự kêu gọi chung Chúa Giêsu kêu
gọi các ông, được nhắc tới rõ ràng trong các sách Tin Mừng. Người ta
đọc: “Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là
ông Simon, cũng gọi là Pherô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài
xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: ‘các anh hãy
theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá’
“ (Mt 4:18-19; Mark 1:16-17).
Từ sách Tin Mừng thứ bốn chúng ta biết một chi tiết quan trọng khác.
Trước hết, Anrê là một môn đệ của Gioan Tẩy Giả, và điều này chứng tỏ
cho chúng ta rằng ông là một con người đang tìm kiếm, chia sẻ niềm hy
vọng của Israel, muốn biết rõ hơn lời Chúa, sự hiện diện của Chúa.
Ong thật là một con người có đức tin và đầy hy vọng, và một ngày kia ông
nghe Gioan Tẩy Giả công bố Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:36);
lúc đó, ông cử động, và cùng với một môn đệ khác, không thấy nói tên, đi
theo Chúa Giêsu Đấng mà Gioan đã gọi là “Chiên Thiên Chúa”. Tác giả tin
Mừng nói: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (
Ga 1:40-43), chứng tỏ liền một tinh thần tông đồ bất thường. Do đó,
Anrê, là tông đồ thứ nhất nhận lãnh sự kêu gọi và theo Chúa Giêsu.
Vì lẽ này phụng vụ của Giáo Hội Byzantine tặng ngài biệt danh
“Protoklitos,” nghĩa là “người được kêu gọi đầu tiên.”
Vì tương quan huynh đệ giữa Pherô và Anrê, Giáo Hội Rome và Gáo Hội
Constantinople coi mình là những Giáo Hội chị em. Để nhấn mạnh tương
quan này, vị tiền nhiệm của tôi, Đức Giáo Hoàng Phaolo VI, năm 1964 giao
lại thánh tích danh tiếng của Thánh Anrê, cho tới lúc đó còn giữ tại
vương cung vatican, cho giám mục giáo tỉnh Chính Thống của thành phố
Patras, tại Hy lạp, nơi mà, theo truyền thống, vị tông đồ bị đóng đinh.
Những truyền thống Tin Mừng nhắc tới tên Anrê cách riêng trong ba trường
hợp khác, cho phép chúng ta biết một cái gì hơn nữa về người này. Dịp
thứ nhất là sự hoá bánh ra nhiều tại Galilée. Trong dịp này, Anrê chỉ
cho Chúa Giêsu sự hiện diện của một thanh niên có 5 cái bánh mạch nha và
hai con cá: rất ít, ông nói, cho tất cả những người qui tụ trong chỗ này
(x. Ga 6:8-9).
Điều đáng làm là nhấn mạnh tính thực tiển của Anrê. Ông đã thấy thanh
niên, nghĩa là, ông đã hỏi em: “Nhưng,điều này đủ thiếu gì cho tất cả
những người này?” (ibid.) và ông trở nên ý thức về sự thiếu những tài
nguyên . Nhưng, Chúa Giêsu có khả năng làm cho bấy nhiêu đủ cho nhiều
người đã đến nghe Người rao giảng.
Dịp thứ hai ở tại Jerusalem. Khi bỏ thành phố, một môn đệ chỉ cho Người
quang cảnh của những bức tường kiên cố chống đỡ đền thờ. Câu trả lời của
Thầy gây ngạc nhiên: Người nói rằng về những bức tường này sẽ không tảng
đá nào trên tảng đá nào. Bấy giờ Anrê, cùng với Pherô, Giacôbê và Gioan,
hỏi Người: “Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ
xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo trước?”
(Mark 13:1-4).
Như một câu giải đáp cho câu hỏi này, Chúa Giêsu đọc một diễn văn quan
trọng về sự tàn phá Giêrusalem và ngày tận thế, mời các môn đệ Người đọc
kỷ các dấu chỉ của thời đại và phải luôn giữ một thái độ tỉnh thức. Từ
tình tiết này chúng ta có thể kết luận rằng chúng ta không phải sợ hỏi
Chúa Giêsu những câu hỏi, nhưng đồng thời, chúng ta phải sẵn sàng chấp
nhập những huấn giáo, cũng gây kinh ngạc và khó hiểu, Người cống hiến
cho chúng ta.
Sau cùng, một sáng kiến thứ ba của Anrê được ghi trong những Tin Mừng.
Khung cảnh tiếp tục là Jerusalem, ít lâu trước sự Thương Khó. Nhân dịp
ngày lễ Vượt Qua, Gioan tường thuật, một số người Hy lạp đã đến Thành
Thánh, có lẽ họ là những tân tòng hay là những người kính sợ Thiên Chúa,
để thờ phung Thiên Chúa dân Israel trong ngày lễ Vượt Qua.
Anrê và Philip, hai tông đồ có tên Hy lạp, là những thông dịch viên và
trung gian giữa Chúa Giêsu và nhóm nhỏ này người Hy lạp. Câu trả lời cho
câu hỏi này xem ra thần bí, như thường xảy ra trong Tin Mừng Gioan,
nhưng chính xác bằng cách này câu trả lời được mặc khải đầy ý nghĩa.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ Người và, qua trung gian các ông, cho thế
giới Hy lạp: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật
anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi
một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12
:23-24).
Những lời nói này có ý nghĩa gì trong bối cảnh này? Chúa Giêsu muốn nói:
Vâng, sẽ xảy ra cuộc gặp mặt của tôi với những người Hy lạp, nhưng cuộc
đàm thoại của tôi sẽ không phải là cuộc đàm thoại đơn sơ và ngắn ngủi
với một số người, cử động hơn hết do tình tọc mạch. Với sự chết của tôi,
giống như hột lúa mì rơi xuống đất, giờ vinh quang của tôi sẽ tới. Hiệu
quả lớn sẽ phát xuất từ cái chết của tôi trên thánh giá. “Hột lúa đã
chết”—tiêu biểu cho sự tôi bị đóng đinh—sẽ tới, sẽ trở nên, trong ngày
Phục Sinh, bánh ban sự sống cho thế gian: Hột giống ấy sẽ trở nên ánh
sáng cho các dân tộc và các văn hoá.
Vâng, cuộc gặp gỡ với linh hồn Hy lạp, với thế giới Hy lạp, sẽ xảy ra
trong chiều sâu này chiều sâu mà hột lúa qui chiếu, hột lúa lôi kéo về
mình những sức lực của đất và trời và trở nên bánh. Nói cách khác, Chúa
Giêsu nói tiên tri về Giáo Hội người Hy lạp, Giáo Hội của dân ngoại,
Giáo Hội của thế giới như là hoa quả sự Vượt Qua của Người.
Những truyền thống rất xưa tin rằng Anrê, người truyền thông những lời
này cho các người hy lạp, không những là thông dịch viên của một số
người Hy lạp tại cuộc gặp mặt với Chúa Kitô, mà chúng ta mới nhắc lại,
nhưng ngài được coi là Tông Đồ của người Hy lạp trong những năm tiếp
theo lễ Hiện Xuống; những truyền thống đó nói với chúng ta rằng trong
phần còn lại của sự sống ngài, ngài là sứ giả và thông dịch viên của
Chúa Giêsu cho thế giới Hy lạp.
Pherô, em ông, đã đến Rome từ Jerusalem, đi ngang qua Antioch, để thực
thi sứ vụ phổ quát của ngài, Anrê, ngược lại, là Tông đồ của thế giới Hy
lạp. Như vậy, cả hai trong khi còn sống hay khi chết, các ông xuất hiện
như hai anh em đích thực, một tình huynh đệ được diễn tả cách tiêu biểu
trong tuơng quan đặc biệt của những tòa Rome và Constantinople, những
Giáo Hội thật sự là chị em.
Một truyền thông tiếp theo, như tôi đã nói, tường thuật sự chết của Anrê
tại Patras, nơi ngài cũng đã chịu khổ hình sự đóng đinh. Tuy nhiên ,
trong lúc cao cả này, như em ngài là Pherô, ngài đã xin được đặt trên
một cây thánh giá khác với cây thánh giá của Chúa Giêsu. Trong trường
hợp này, đó là một cây thánh giá có hình chữ X, nghĩa là, với hai cây
ngang bắt chéo, vì lẽ đó thánh giá này được gọi là “thánh giá thánh
Anrê.”
Đây là điều ngài có lẽ đã nói trong dịp này, theo một tường thuật xưa
(đầu thế kỷ thứ sáu), gọi là “Sự Thương Khó của Anrê”: “Xin chào, Ôi
thánh giá, đã được tấn phong bởi xác Chúa Kitô, thánh giá đã trở nên đồ
trang sức của các chi thể Người, dường như đó là những viên ngọc qúi.
Trước khi Chúa lên nằm trên ngươi, ngươi đã gây nên một sự khủng bố trần
gian.
Tuy nhiên, bây giờ, được trau giồi với một tình yêu trên trời, ngươi đã
trở nên một ân huệ. Các tín hữu biết ngươi có biết bao niềm vui, biết
bao nhiêu ân huệ ngươi cống hiến. Do đó, đầy tin tưởng và đầy niềm vui,
tôi đến để ngươi cũng nhận lãnh tôi nhảy mừng như người môn đệ của Đấng
treo trên ngươi.. Hỡi thánh giá đáng chúc phúc, đã nhận lãnh vẻ uy nghi
và vẻ đẹp của các chi thể của Chúa., hãy nhận lấy tôi và hãy đưa tôi xa
những con người và trao tôi cho Thầy của tội ngõ hầu, nhờ ngươi, Người
sẽ nhận lãnh tôi, Người là đấng nhờ ngươi đã cứu chuộc tôi. Chào mừng,
Ôi thánh giá, vâng, thật sự, chào mừng!”
Như chúng ta có thể thấy, chúng ta đứng trước một linh đạo Kitô hữu cực
kỳ sâu xa, linh đạo này thấy trong thánh giá, ngoại trừ một dụng cụ cực
hình, phương tiện vô song làm cho hoàn toàn nên giống Đấng Cứu Chuộc,
giống hột lúa rơi xuống đất. Chúng ta phải học một bài học rất quan
trọng. Những thánh giá của chúng ta có giá trị nếu được xem và đón chào
như phần thánh giá của Chúa Kitô, nếu được chạm bởi sự phản chiếu của
ánh sáng Người. Chỉ nhờ thánh giá này những đau khổ của chúng ta được
nên cao thượng và đạt tới ý nghĩa thật sự của chúng.
Xin Tông đồ Anrê dạy chúng ta đi theo Chúa Giêsu cách mau lẹ (x. Mt
4:20; Mark 1:18), nói cách say mê về Người cho tất cả mọi người chúng ta
gặp và, hơn hết, vun trồng một tương quan thân tình thật sự với Người,
vì ý thức rằng chỉ trong Người chúng ta mới có thể gặp được ý nghĩa cuối
cùng của sự sống và sự chết chúng ta
[Cuối buổi tiếp kiến, Đức Giáo hoàng chào những người hành hương trong
bảy thứ tiếng. Trong tiếng Anh, ngài nói:]
Tiếp tục bài giáo lý hằng tuần của chúng ta về thừa tác vụ tông đồ của
Giáo Hội, hôm nay chúng ta quan sát gương mặt Tông Đồ Anrê. Theo Tin
Mừng Gioan, Anrê là tông đồ đầu tiên được Chúa Giêsu gọi; sau đó, ông
dẫn em mình, Simon Pherô, tới gặp Chúa. Tương quan huynh đệ của hai tông
đồ cả này, được phản chiếu trong tương quan đặc biệt giữa những Giáo Hội
chị em Rome và Constantinople.
Tên “Anrê” là tiếng Hy lạp, và trong Tin Mừng Gioan, khi một số người Hy
lạp muốn thấy Chúa Giêsu, thì chính Anrê, với Philp, là những kẻ trình
những thỉng nguyện của họ lên Chúa. Câu giải đáp của Chúa Giêsu, với sự
qui chiếu về hột lúa chết và sau đó sinh nhiều hoa trái (x. Ga
12:23-24), là một lời tiên tri về Giáo Hội Dân Ngoại, sẽ lan tràn khắp
thế giới Hy lạp sau khi Chúa sống lại và sự tuôn đỗ Chúa Thánh Thần.
Theo một số truyền thống xưa, Anrê rao giảng Tin Mừng giữa người Hy lạp
cho tới khi ngài gặp sự chết chịu đóng đinh. Gương của ngài linh hứng
chúng ta nên những môn đệ nhiệt thành của Chúa Kitô, để đưa những kẻ
khác tới với Chúa, và ôm ấp mầu nhiệm thánh giá của ngài, cả trong sự
sống và sự chết.
Tôi chào tất cả những khách thăm viếng nói tiếng Anh hiện diện, gòm
những nhóm đến từ England, Ireland, Japan, Malaysia, Taiwan, South
Africa và United States. Tôi chào cách riêng những Chị Em Felician qui
tụ về Rome dự tổng tu nghị. Trên tất cả anh chị em và các gia đình anh
chị em, tôi cầu xin phúc lành dồi dào hoà bình và niềm vui của Thiên
Chúa! |