Bài đọc I. (Act 12,1-11) Chết chóc, bắt bớ là gia tài mà Chúa Giêsu trối lại cho các môn đệ của mình. Nên từ đầu quyển sách tới giờ. Thánh Luca đã có ba bài tường thuật về việc Giáo Hội thời đầu bị bách hại và đây là lần thứ tư, và người bắt bớ lần này có vẻ chính thức hơn: nhà vua.
+ Đây là vua Hêrôđê Agrippa I, cháu nội của vua Hêrôđê cả, con của Aristobule. Được huấn luyện từ nhỏ ở Roma, được hoàng đế Caligula phong vương trên một phần lãnh thổ của ông nội, và sau đó nhờ có công với hoàng đế Claudiô nên được cai trị toàn lãnh thổ rộng lớn của ông nội khi trước (41-44). Ông bắt bớ GH có lẽ vào khoảng năm 42.
Đời sống của nhà vua ở Roma thì rất là phóng đãng, theo gương của đế quốc, nhưng khi về làm vua dân Do thái, nhà vua đã chiếm được cảm tình dân bằng bộ mặt giả đạo đức đến mức sùng bái. Cũng trong chiều hướng chiếm cảm tình dân Do thái mà ông ra lệnh xử trảm thánh Giacôbê và bây giờ đến lượt Phêrô. Bắt và giam giữ thánh Phêrô vào dịp lễ vượt qua này không ngoài mục đích tuyên truyền (nhà vua lo lắng gìn giữ đạo Do thái) một cách rộng rãi và dễ dàng hơn.
+ Kiểu giữ tội nhân đây là kiểu của người Roma: đêm chia làm bốn canh, mỗi canh có một toán lính bốn người canh giữ tội nhân: một người xiềng vào tay mặt, một người xiềng vào tay trái tội nhân, một người giữ cửa phòng giam, một người thứ tư đứng ngoài cửa hành lang dẫn ra cửa khám, ở ngoài còn có lính khác đi tuần. Khi chủ ngục hay lính canh để một tội nhân chạy thoát, thì họ phải chịu hình phạt của tội nhân đó, nhiều khi gặp hoàn cảnh đó, họ tự tử để khỏi chịu gia hình.
+ Thánh Luca rõ ràng muốn liên kết sự giải thoát lạ lùng của thánh Phêrô với lời nguyện của Giáo hội. Nhưng cũng giống như trong Phúc âm, Luca cho chúng ta thấy Giáo Hội theo gương Chúa Giêsu cầu nguyện vào những biến cố quan trọng của đời sống Giáo Hội. “Tất dả cùng một lòng, chí thú cầu nguyện” (1,14) để chuẩn bị đón nhận Chúa Thánh Thần, cầu nguyện trước khi tìm người thay thế Giuđa (1,24-26), trước khi thiết lập bảy phó tế (6,6); cầu nguyện sau khi Gioan và Phêrô được thả lần thứ nhất, để xin ơn sức mạnh rao giảng lời Chúa (4,24-30); cầu nguyện cho những người mới được Philipphê rửa tội ở Samaria (8,15); và đoạn của chúng ta. Ngoài ra, tuy có liên kết giữa sự giải thoát lạ lùng của Phêrô và lời cầu nguyện của Giáo Hội, nhưng thánh Luca không nói là cả Giáo Hội cầu cho Phêrô được giải thoát mà chỉ nói là “luôn luôn cầu nguyện cùng Chúa cho người”. Phải chăng đây thánh Luca hiểu sự cầu nguyện như thánh Phaolô: “hãy cùng chiến đấu với tôi trong những lời nguyện mà anh chị em dâng lên Thiên Chúa cho tôi” (Rm 15,30; Col 4,12).
+ Việc Phêrô vẫn ngủ say đêm trước khi bị đem ra xử là dấu ông bình an tâm hồn và phó thác hoàn toàn vào tay Chúa: Thiên thần phải đập vào sườn và đánh thức ông, và khi dậy, ông chưa tỉnh hẳn, Thiên thần phải bảo ông từ chi tiết một.
Áp dụng cụ thể. + Qua các thời đại, Giáo Hội đã trải qua bao nhiêu cơn bắt bớ, bởi vì điều đó “đẹp lòng” những người thù nghịch Giáo Hội. Nhưng công khai hay che đậy, những cuộc bắt bớ đó chỉ một thời gian thôi và không bao giờ làm gì nổi Giáo Hội. Trong ngày lễ thánh Phêrô Phaolô hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta đọc lại sự bất lực của Hêrôđê, của lính canh của gông cùm. Đối với Phêrô, chắc chắn muốn nhắc chúng ta nhớ lại lời Chúa phán với Phêrô: “Con là đá và trên đá này Ta sẽ xây Hội Thánh Ta và cửa (quyền lực) hoả ngục cũng không chống nổi nó” (bài Phúc âm Mt 16,18). Chúng ta cũng có thể nhớ những câu khác Chúa nói với các tông đồ: “Các con hãy tin tưởng, Ta đã thắng thế gian (Jn 16,33); Này đây, Ta sẽ ở cùng các con mỗi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,26).
+ Giáo hội cảm thấy liên đới chặt chẽ với vị giáo hoàng của mình, điều gì động đến giáo hoàng là động chạm đến Giáo hội, cảm động biết bao khi cả Giáo Hội đồng loạt và kiên trì cầu nguyện cho vị cha chung của mình bị bắt bớ. Chúng ta có cảm thấy kết hợp chặt chẽ với Đức Thánh Cha không? Ngài cũng đang phải đương đầu với bao sự chống đối công khai hoặc trá hình, từ mọi mặt.
+ “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ”. Phêrô đã không cầu nguyện nên đã sa ngã khi Chúa bị bắt. Lần này chẳng những Phêrô mà cả cộng đoàn cùng cầu nguyện, nên Phêrô bình tĩnh không phải sợ gì nữa. Bao nhiêu vị chủ chăn của chúng ta đang cần lời cầu nguyện của chúng ta để hiên ngang làm chứng cho Chúa Kitô. Có lẽ điều đó cần hơn là sự giải thoát lạ lùng như của Phêrô. Chúng ta thấy Phêrô cũng đang ngủ say để lấy sức chiến đấu chớ không ái náy trông chờ được giải thoát.
+ Chúa luôn sống sát với từng biến cố của Giáo Hội. Của mỗi cộng đoàn và của mỗi cá nhân. Và khi cần Chúa sai Thánh Thần Chúa đến can thiệp. Chúng ta còn tin Chúa luôn săn sóc và sai thiên thần Chúa đến can thiệp cho chúng ta không? Thiên thần của Chúa ngày hôm nay có thể hiện ra với nhiều hình thức khác nhau, có điều chắc chắn là chúng ta cũng như Phêrô không thể ngờ trước được hình thức Chúa chọn để can thiệp cho chúng ta.
Bài đọc 2. 2Tm 4,6-8. 17-18. Thánh Phaolô viết bức thơ này từ ngục thất tại Roma, trong kỳ ngài bị giam giữ lần thứ hai. Ngài thấy trước cái chết gần kề, nên. Những lời ngài nói trong bài thánh thơ hôm nay có thể coi như là những lời từ giã, có thể so sánh với Jn 13-17 và Act 20,18-35. Bài của chúng ta tuy ráp từ hai chỗ khác nhau, nhưng hoàn toàn mạch lạc vì mấy câu ở giữa chỉ là những tin tức về một vài cộng tác viên. Phần thứ nhất: ở cuối cuộc đời, thánh Phaolô nhìn tổng kết về cuộc đời tông đồ của mình trước mặt Chúa là Đấng sẽ xét xử người. Cái nhìn của người hướng về hiện tại (c.6), quá khứ (c.7) Và tương lai (c.8). Phần thứ hai cho thấy tình trạng tù đày của tác giả.
+ Tác giả nhìn hiện tại như một cuộc tế lễ và một cuộc trẩy đi. Bản dịch Phụng vụ dịch là “Cha đã già yếu”, nhưng trong thực tế, từng tiếng có nghĩa là: đời cha đã được đổ ra (hiến dâng) như chén rượu tế lễ. (Je suis déjà répendu en libation). Hình ảnh này được mượn từ những cuộc tế lễ Do thái cũng như ngoại giáo: người chủ tế rưới một ít rượu, hoặc dầu, hoặc nước,hoặc máu lên của lễ, lên bàn thờ, hoặc lên lò lửa tế lễ. Thánh Phaolô thấy trước máu mình sắp đổ ra để hoàn tất cuộc đời mình là một “cuộc tế lễ thiêng liêng” không ngừng (Rm 12,1). Thánh Phaolô noi gương Chúa Giêsu: hôm trước khi Người chịu nạn, Người đã tiến dâng lên Chúa Cha máu mình sẽ đổ ra ký kết giao ước mới vì phần rỗi loài người. Hình ảnh thứ hai mà chúng ta tạm dịch bằng chữ “trẩy đi” đó là hình ảnh của một chiếc tàu nhổ neo sắp rời bến hoặc của một người lính, một bộ hành cuốn lều, sẵn sàng lên đường. Tác giả nhìn cái chết như một cuộc trẩy đi sau khi đã tạm nghỉ, và là một cuộc trở về cùng Chúa Kitô (Phil 1,23).
+ Tác giả diễn tả quá khứ bằng ba hình ảnh với ba động từ ở thì đã qua trọn hảo (parfait), chỉ tỏ tác giả đã thực hiện trọn vẹn, đến mức cuối cùng. “Cha đã chiến đấu đến cùng trận chiến tốt đẹp!”: hình ảnh lấy từ đời sống binh bị hay thể thao. “Cha đã chạy đến mức” (cuộc chạy đua). “Cha đã giữ vững đức tin”: có nghĩa là đã trung thành với Chúa Kitô qua mọi thử thách mọi gian khổ, cũng có thể có nghĩa là đã trung thành với tất cả mọi qui luật của cuộc chiến.+ Và cuối cùng tác giả hướng cái nhìn đến tương lai: như người thể tháo viên thắng cuộc sẽ lãnh phần thưởng chiến thắng, tác giả cũng được Chúa chí công trao triều thiên công chính. Triều thiên công chính có thể hiểu ba cách.
1. Triều thiên để tưởng thưởng sự công chính của Phaolô: nghĩa không phù hợp với thần học của thánh Phaolô.
2.Triều thiên này chứng tỏ Chúa chí công tưởng thưởng người xứng đáng.
3.Triều thiên là chính sự công chính vĩnh cữu mà Chúa ban vĩnh viễn cho Phaolô và không bao giờ hư mất.
Phần II. Khi ở tù lần thứ nhứt thánh Phaolô được ở nhà riêng có lính giữ và có thể đi nơi này nơi nọ (dĩ nhiên có lính giữ). Nhưng lần thứ hai này, tác giả phải nhốt trong khám Onésiphae đã không phải dễ dàng mà tìm gặp được. Vừa rồi đây thánh Phaolô đã bị đem ra xử lần thứ nhứt, không có ai biện hộ cho người, mọi người đều bỏ rơi thánh Phaolô, nhưng thánh Phaolô xin Chúa thứ tha cho họ. Đằng khác nhờ Chúa Cha nâng đỡ phù hộ tác giả, tác giả chẳng những tự biện hộ mình mà đó cũng là dịp để rao giảng danh Chúa cho thính giả Roma, do đó mà tác giả nói: “Nhờ Cha mà sứ điệp được công bố, được đến tai tất cả những người ngoại giáo” (c.17). Và kết cục công việc cũng không đến nỗi, toà án xét thấy chưa đủ yếu tố nên hoãn lại điều tra thêm để chờ phiên xử thứ hai, do đó mà tác giả nói: “Cha đã thoát khỏi miệng sư tử”(c.17). Nhưng tác giả không thể lầm lẫn về kết cùng của cuộc xử án. Việc ngài tạm thời được thoát nạn chỉ là dấu và là bảo chứng cho phần rỗi thật sự mà Chúa dành cho người trong vương quốc của Người.(c.18).
Áp dụng cụ thể. + Hình ảnh mà Giáo hội muốn trình bày cho chúng ta về cột trụ thứ hai của Giáo hội cũng là hình ảnh một con người sau một cuộc đời bôn ba hiển hách lại cũng co ro trong khám tối, mang xiềng xích, và bạn bè thân thuộc rời xa hết. Đứng trước mặt quan toà không người biện hộ, đương sự lại không lo biện hộ mình mà chỉ lo cho danh Chúa và sứ điệp của Người. Người không than phiền trách móc ai mà chỉ cầu xin Chúa tha thứ những người có lỗi với mình. Đó là hình ảnh họa lại của Chúa Kitô và đó cũng là hình ảnh của mọi tông đồ, chiến sĩ của Phúc âm Chúa.
+ “Ta đã chiến đấu đến cùng cuộc chiến tốt đẹp”. Một câu xứng đáng để phản ảnh cuộc đời của một con người đã dùng cả hồn xác, trí khôn, con tim, cả con người mình, cả mọi tài năng của một bản chất vô cùng phong phú để chiến đấu cho nước Chúa. Cũng như người thể tháo viên hoàn hảo giữ đúng điều lệ của cuộc đua, thánh Phaolô đã luôn trung thành với mọi đòi hỏi của cuộc sống tông đồ, đã trung thành với Chúa Kitô. Sự trung thành này tác giả đã phải trả giá bằng bao nhiêu chống đối, bắt bớ, tù tội, gian khổ.. Không bao giờ thánh Phaolô có vẻ nhượng bộ đi nước đôi, và cuối cùng tác giả phải trả bằng chính mạng sống, tác giả có quyền hãnh diện.
+ Tuy là dòng dõi Pharisiêu, tác giả không tự hào như người Pharisiêu của dụ ngôn (Lc 18,9-14). Thật ra thánh Phaolô ý thức về việc lành mình làm được, chối bỏ điều đó là bạc ơn với Chúa. Nhưng thánh Phaolô biết rằng tất cả mọi sự đó không do mình mà do Chúa. Thánh nhân không tạ ơn Chúa về cá nhân mình, không tự so sánh với người khác, mà chỉ thấy Chúa phù hộ tôi, Chúa giúp sức tôi, Người sẽ cứu tôi thoát mọi điều bất chính và Người sẽ cứu thoát tôi (c.18 mà bản dịch Phụng vụ bỏ sót).
Phúc âm Mt 16,13-19. Tuần rồi chúng ta may mắn đã có dịp xem đoạn song song bên Phúc âm thánh Luca, như thế chúng ta có thể dễ dàng để so sánh và nhận thấy quan điểm cũng như những nhấn mạnh khác nhau của mỗi tác giả.
+ Đoạn của chúng ta thường được coi là trung tâm là bản lề của hai phần tường thuật của Phúc âm. Những lý do được nêu ra như sau:
- Đây là lần thứ nhứt Chúa Giêsu hỏi các môn đệ về chính mình. - Cũng là lần thứ nhứt thánh Phêrô tuyên xưng rõ ràng Chúa Giêsu là Đấng thiên sai. Cũng là lần thứ nhứt Chúa Giêsu tiên báo về cuộc thương khó và tử nạn của mình. - Sau đoạn này, chúng ta thấy câu chuyện xoay quanh cuộc thương khó và lên Giêrusalem.- Từ sau đoạn này, Chúa bỏ Galilê để tiến về Giêrusalem.- Chúa cũng quay hướng việc giáo huấn, gần như chỉ lo lắng cho mười hai tông đồ.- Lời giảng dạy từ trước tới giờ xoay quanh mầu nhiệm nước Trời, từ nay hướng về Con Người Đấng Thiên sai chịu đau khổ, về sự cần thiết của thánh giá, về việc các môn đệ phải từ bỏ mình.Như vậy chúng ta thấy đoạn văn của chúng ta nằm ở khúc quanh lớn của Phúc âm Matthêu cũng như của các Phúc âm nhất lãm.
+ Câu hỏi về ý kiến của người khác chỉ nhằm dọn đường cho câu hỏi sau và nhằm cho thấy sự khác biệt sâu xa giữa điều người ta có thể nghĩ về Chúa và điều các môn đệ phải nghĩ về Chúa.
+ Trong ý kiến của mọi người có một điều chung là mọi người đều coi Chúa là tiên tri. Thật ra đây là một quan niệm rất tốt. Nhưng điều khác biệt căn bản là tiên tri thì được chọn từ loài người, còn Người thì là vị tiên tri từ trên cao xuống. Điều này nhân loại không thể nhận ra được. Đó là ý nghĩa quan trọng nhất của lời tuyên xưng của Phêrô.
+ “Con Thiên Chúa hằng sống” chúng ta khó mà biết được lời này muốn nói Chúa Giêsu là Con Một Chúa Cha hay chỉ có nghĩa tương đương như Đấng Thiên sai, người của Chúa!
+ “Con là đá, và trên đá này Ta xây Hội thánh Ta”.
+ “Và cửa địa ngục sẽ không đứng vững được với nó”. Chúa Giêsu có vẻ muốn nói cửa địa ngục (nơi người chết ở tạm thời đến ngày sống lại khi tận thế) sẽ không cầm giữ được những người chết thuộc về nước Trời dưới quyền lực nó mãi.
+ Chiều hướng chung của các nhà chú giải ngoài Công giáo muốn giới hạn những lời hứa của Chúa Giêsu cho riêng cá nhân thánh Phêrô mà thôi, Chúa Giêsu không có ý nhằm thiết lập một chức vụ thường tồn. Thật ra phải xét theo mặt chữ thì ở đây Chúa Giêsu chỉ nói riêng với một mình Phêrô. Nhưng Chúa cũng nói tới Giáo hội mà Phêrô làm đầu và Giáo hội này phải trường tồn như Chúa thiết lập, phải tồn tại đời đời vì dầu sự chết cũng không làm gì được Giáo hội. Vậy sự trường tồn này có thể thực hiện được không, nếu những lời hứa cho Phêrô không được truyền lại cho những người kế vị? Chắc chắn là không! Do đó, giáo lý Công giáo về việc kế vị tông đồ chỉ là kết luận hợp lý của lời hứa của Chúa Giêsu ở đây.
Áp dụng cụ thể. + Giáo hội là của Chúa Kitô. Chính Người qui tụ, thiết lập, hướng dẫn. Nhưng Chúa đã đặt Phêrô làm nền tảng. Chúng ta muốn thuộc về Chúa Kitô, thì phải dựa trên nền tảng này. Chính Phêrô lãnh quyền trói mở: chính Giáo hội thay mặt Chúa để phán quyết đường ngay lẽ phải cho chúng ta. + Phêrô được Chúa chọn, nhưng Phêrô không phải hoàn hảo đâu. Ở thế gian này cũng không có việc gì hoàn hảo, các vị đại diện Chúa Giêsu cũng vậy! Nhưng nếu chúng ta muốn đến với Chúa thì chúng ta phải qua các ngài. Chính Chúa đã chọn các ngài.Điều bảo đảm cho chúng ta là Chúa luôn gìn giữ Giáo hội của Chúa. + Những thử thách, những bắt bớ có dữ dằn như cửa hoả ngục đi nữa, người tín hữu cũng không việc gì phải sợ: tất cả sẽ không đứng vững nổi với Giáo hội của Chúa đặt trên nền đá. |