Sơ Lược Tiểu Sử:

91. Phêrô Thuần, đánh cá; sanh tại Ðông Phú, Thái Bình; chết 6 tháng 6, 1862, tại Nam Ðịnh. Ngài bị chết thiêu trong một lều tre cùng với thánh Phêrô Ða. Phong Á Thánh 1951.  

92. Phaolô Lê Bảo Tịnh, linh mục; sanh 1793 tại Trinh-Hà, Thanh Hóa; chết 6 tháng 4, 1857 tại Sơn Tây. Ngài viết một lá thư cho chủng viện Kẻ Vĩnh năm 1843 ghi rõ sự khổ sở của các tù nhân Công Giáo. Bị xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1909. Ngày Lễ: 6 tháng 4.  

93. Ðaminh Toái, đánh cá; sanh 1811 tại Ðông Thành, Thái Bình; chết 5 tháng 6, 1862, tại Nam Ðịnh. Ngài bị chết thiêu trong một túp lều tre cùng với Thánh Phêrô Ða và Phêrô Thuần. Phong Á Thánh 1951.  

94. Tôma Toán, Dòng Ba Ða Minh, thầy giảng; sanh 1767 tại Cần Phan, Nam Ðịnh; chết 27 tháng 6, 1840, tại Nam Ðịnh. Mặc dầu giảng dạy đức tin cho người khác, đức tin của chính ngài bị lung lay. Sau khi có dấu hiệu đã bỏ đạo, ngài hối hận. Do đó, ngài bị đánh đòn dã man, và bị đem phơi nắng cho ruồi bọ rúc rỉa trong 12 ngày không cho ăn uống cho đến khi ngài chết năm 73 tuổi. Phong Á Thánh 1900.  

95. Ðaminh Trạch (Ðoài), linh mục, Dòng Ba Ða Minh; sanh 1792 tại Ngoại Bồi, Nam Ðịnh; chết 18 tháng 9, 1840, tại Bảy Mẫu. Thánh Trạch, môt linh mục bản xứ Ða Minh 49 tuổi, đã hoạt động để rao giảng Phúc Aâm cho dân chúng cho đến khi bị bắt. Năm sau, ngài được phép lựa chọn là được sống hay chết vì chối đạo. Ngài thú thật là có đạo và khuyến khích các bạn hữu trước khi bị xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1900.  

96. Êmanuen Nguyễn Văn Triệu, linh mục; sanh chết 1756 tại Phú Xuân, Huế; chết 17 tháng 9, 1798, tại Bãi Dâu (Bồng Sơn). Cha Triệu, sanh trưởng trong một gia đình công giáo gia nhập quân đội. Sau đó ngài được thụ phong linh muc tại Pong-King và hoạt doing cùng với các linh mục khác trong hội Thừa Sai Balê. Ngài bị bắt khi về thăm mẹ và bị xử trảm (chém đầu), và trở nên một trong những linh mục triều Việt Nam đầu tiên chịu tử đạo. Phong Á Thánh 1900.  

97. Anrê Trần Văn Trông, binh sĩ; sanh 1817 tại Kim Long, Huế; chết 28 tháng 11, 1835 tại An Hòa, Huế. Anrê Trông là một binh sĩ trẻ tuổi, một thợ dệt tơ của nhà vua, và thuộc Hội Thừa Sai Balê. Khi triều đình khám phá ra sự liên hệ này năm 1834, ngài bị bắt, bị truất hết chức tước, và bị giam vào tù. Cũng giống như Ðức Mẹ, mẹ của ngài có mặt khi ngài bị xử tử và đã nhận lãnh thủ cấp của con trong lòng. Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ: 18 tháng 11.  

98. Phêrô Vũ Văn Truật, thầy giảng; sanh 1816 in Kẻ Thiếc, Hà Nam; chết 18 tháng 12, 1838, tại Sơn Tây. Phong Á Thánh 1900.  

99. Phanxicô Trần Văn Trung, binh sĩ; sanh 1825 tại Phan-Xã; chết 2 tháng Năm, 1858, tại An-Hòa. Thánh Trung là một cai đội, và được rửa tội. Bị xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1909. Ngày Lễ: 6 tháng 10.  

100. Giuse Tuân, linh mục Ða Minh; sanh 1821 tại Trân Xá, Hưng Yên; chết ở đó 30 tháng 4, 1861, sau một thời gian bị tra tấn lâu dài Phong Á Thánh 1951.  

101. Giuse Tuân, giáo dân; sanh 1825 tại Nam Ðiền, Nam Ðịnh; chết 7, tháng 1, 1862, tại Nam Ðịnh. Phong Á Thánh 1951  

102. Phêrô Nguyễn Bá Tuần, linh mục; sanh 1766 tại Ngọc Ðồng, Hưng Yên; chết 15 tháng Bẩy, 1838, tại Ninh-Tài, Nam Ðịnh. Ngài phục vụ cho giáo dân Việt Nam rất nhiều năm trước khi bị bắt. Thánh Phêrô Tuần chết rũ tù vì các vết thương của các cuộc tra tấn, trong khi chờ lệnh xử trảm. Phong Á Thánh 1900.  

103. Giuse Túc, giáo dân; sanh 1852 tại Hoàng Xá, Bắc Ninh; chết ở đó 1 tháng 6, 1862. Một đứa trẻ mới 10 tuổi chịu xử trảm vì đức tin. Phong Á Thánh 1951.  

104. Phêrô Nguyễn Khắc Tự, thầy giảng; sanh 1811 tại Ninh Bình; chết 10 tháng Bẩy, 1840, tại Ðồng Hới. Bị xử giảo. Phong Á Thánh 1900.  

105. Phêrô Nguyễn Văn Tự, linh mục Ða Minh; sanh 1796 tại Ninh Cường, Nam Ðịnh, chết 5, tháng 9, 1838, tại Bắc Ninh. Phong Á Thánh 1900.  

106. Ðaminh Tước, linh mục; Dòng Ba Ða Minh, sanh 1775 tại Trung Lao, Nam Ðịnh; chết 2 tháng 4, 1839, tại Nam Ðịnh. Thánh Tước chết rũ tù vì các vết thương. Phong Á Thánh 1900.  

107. Anrê Tường, thầy giảng; sanh 1812 tại Ngọc Cục, Nam Ðịnh; chết 16 tháng 6, 1862, tại Làng Cốc. Phong Á Thánh 1951.  

108. Vinh-Sơn Tường, quan tòa, giáo dân; sanh 1814 tại Ngọc Cục, Nam Ðịnh;chết tháng 6 16, 1862, tại Làng Cốc, . Phong Á Thánh 1951.  

109. Phêrô Lê Tùy, linh mục; sanh 1773 tại Bằng Sở, Hà Ðông; chết 11 tháng 10, 1833, tại Quan Ban. Ngài sanh trưởng trong một gia đình công giáo và hăng hái học tập để trở thành linh mục. Năm 70 tuổi, sau rất nhiều năm giảng đạo, ngài bị bắt và bị xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1900.  

110. Ðaminh Bùi Văn Úy, Dòng Ba Ða Minh, thầy giảng; sanh 1813 tại Tiên Mon, Thái Bình; chết 19 tháng 12, 1839, Cổ Mễ. Ngài bị bắt vì có đạo cùng với Tôma Ðệ và bị xử giảo (thắt cổ) chết vì không chịu bỏ đạo. Phong Á Thánh 1900.  

111. Giuse Nguyễn Ðình Uyển, Dòng Ba Ða Minh, thầy giảng; sanh khoảng 1775-1778 tại Ninh Cường, Nam Ðịnh; chết 4 tháng Bẩy, 1838 tại Hưng Yên. Sau một năm bị cầm tù và bị tra tấn, ngài bị xử giảo (thắt cổ) chết trong ngục. Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ: 3 tháng Bẩy.  

112. Phêrô Ðoàn Văn Vân, thầy giảng; sanh 1780 tại Kẻ Bói, Hà Nam; chết 25 tháng Năm, 1857, tại Sơn-Tây. Ngài bị xử trảm (chém đầu) ở tuổi khá thọ. Phong Á Thánh 1909.  

113. Giuse Thêophanô Vénard Ven, linh mục; sanh tháng 11. 21, 1829 tại St-Loup-sur-Thouet (Deux-Sèvres), Poitiers, Pháp; chết 2 tháng 2, 1861, tại Cầu Giấy. Người con trai của một thầy giáo làng này theo học tại trường College of Doue-la-Fontaine, và tại các chủng viện Montmorillon và Poitiers, nơi ngài được phong chức thầy sáu (1850). Ngài được chuyển sang Hội Thừa Sai Balê (1851), và được thụ phong linh mục ngày 5 tháng 6, 1852, và khởi hành đi Hồng Kông 19 tháng 9. Vì rất gần gũi với gia đình, ơn gọi của ngài làm linh mục là điều làm cho cha mẹ ngài rất đau lòng, kể cả Thánh Thêophanô, là người bị giằng co giữa ước muốn ở lại trong gia đình ấm cúng đầy yêu thương và ơn gọi theo Chúa. Sau 15 tháng học tập tại Hồng Kông, ngài bí mật tới Việt Nam (1854), nơi giáo dân và giáo sĩ ngay tước đó mới phải chịu một chuỗi dài những vụ bắt bớ đàn áp dưới triều Minh-Mệnh. Năm 1856, ngài bị trục xuất ra khỏi Nam-Ðịnh và đi Hà Nội. Ngay sau khi tới đây, lại có sắc chỉ triều đình lùng bắt đạo nên các giám mục và linh mục phải lẩn trốn trong các hang động, rừng rậm, vỏ thuyền, và các nơi khác. Cha Ven, vị thể chất yếu đuối, phải chịu ốm đau thường xuyên. Tuy nhiên ngài vẫn tiếp tục sứ mệnh ban đêm, và rồi can đảm hơn, ngài còn giảng đạo cả ban ngày vì ngài cảm phục tinh thần anh dũng của giáo dân Việt Nam đã chịu bách hại từ năm 1848. Ngày 30 tháng 11, 1860, ngài bị một giáo dân phản bội và bị bắt tại Kim Bang. Bị một quan lại xét xư.û Ngài từ chối không chịu bỏ đạo và bị lên án xử trảm. Trong hai tháng sau đó, ngài bị xiềng xích trong cũi, trong đó ngài viết nhiều lá thư rất cảm động và an ủi gia đình. Ngài an vui chờ đợi ngày được đội triều thiên tử đạo. (Các lá thư và gương sáng của ngài đã đánh động vị Thánh trẻ Têrêsa thành Lisieux tình nguyện sang nhà dòng Camelô tại Hà Nội trong khi bệnh ho lao của ngài đang tái phát. Thánh Têrêsa làm một tuần cửu nhật để cầu nguyện cho thánh Ven, nhưng phải chịu một cơn bệnh tái phát làm cho niềm hy vọng được đi truyền giáo của ngài bị dẹp tan. Ðức Giám mục của Thánh Ven là Ðức Cha Retord, viết về ngài lúc đó như sau: "Mặc dầu bị xiềng xích, ngài vui vẻ như chim sẻ." Các lá thư thánh Ven để lại cũng bầy tỏ tình yêu ngài dành cho gia đình, bạn hữu, và người dân Việt Nam. Ngài viết như sau về những kẻ cầm tù ngài: "Tất cả những người canh giử tôi đều tử tế và lịch sự. Một số đông yêu thương tôi. Từ viên quan lại cao cấp cho đến người lính tầm thường nhất, ai nấy đều tỏ vẻ bất bình về đạo luật của quốc gia họ lên án tử hình người. Trong một lá thư viết cho ba của ngài khi ngài kể về sự hy sinh sắp tới của mình, ngài nói: "Con không bị tra tấn như các người anh em của con, một nhát gươm nhẹ sẽ cắt lìa đầu con khỏi xác, như bông hoa mùa xuân mà Người Chủ Vườn hái để thưởng thức. Chúng ta đều là những đóa hoa dược trồng trên trái đất, để cho Chúa hái khi Người muốn: có người được sớm hơn, có người muộn hơn... Ba và con, chớ gì chúng ta gặp lại nhau trên Thiên Ðàng. Còn con, con chỉ là con mối nhỏ xíu, con xin đi trước. Vĩnh biệt Ba. Trên đường đi chịu tử hình, Thánh Ven hát các Thánh Vịnh và Thánh Ca. Khi những tên hành quyết tỏ vẻ muốn chiếm lấy quần áo của ngài, và hỏi ngài là muốn cho chúng cái gì để được chết nhanh chóng. Cha Ven trả lời: "Càng kéo dài càng tốt." Sau khi ngài bị xử trảm (chém đầu), dân chúng đổ sô tới lấy khăn tay thấm máu của ngài để giữ lại làm thánh tích. Thủ cấp của ngài sau khi bị bêu trên dầu cọc được giáo dân thu lượm và thờ. Năm 1865, thi hài của ngài được chuyển về lăng mộ tại Hội Thừa Sai Balê. Các di tích quý báu khác, kể cả các lá thư viết trong cũi, được chuyển cho người anh của ngài là linh mục Eusebius Venard, lúc đó là cha sở họ đạo Assais Deux Sèvres. Anh của ngài tham dự nghi lễ phong Á Thánh của ngài năm 1900. Ngày Lễ của ngài trước lễ phong thánh được ấn định vào nhiều ngày khác nhau là 2 tháng 2, 6 tháng 11, và 4 tháng 12.

114. Giuse Ðặng Ðình Viên, Dòng Ba Ða Minh, linh mục; sanh khoảng 1786-87 tại Tiên Chu, Hưng Yên; chết 21 tháng 8, 1838, tại Bảy Mẫu. Thánh Viên, sanh trưởng trong một gia đình có đạo, bị xử trảm (chém đầu) vì đức tin. Phong Á Thánh 1900.

115. Stêphanô Nguyễn Văn Vinh, thầy giảng, Dòng Ba Ða Minh; sanh 1814 tại Phù Trang, Nam Ðịnh; chết 19, tháng 12, 1839, tại Cổ Mễ. Ngài là một nông dân sốt sắng, chịu xử giảo (thắt cổ) vì đức tin cùng với bốn người bạn, kể cả Tôma De. Phong Á Thánh 1900.  

116. Ðaminh Nguyễn Văn Xuyên, linh mục Ða Minh; sanh khoảng 1786-88 tại Hưng Lập, Nam Ðịnh; chết 26 tháng 11, 1839, tại Bảy Mẫu. Bị xử trảm (chém đầu) cùng với Thánh Tôma Dụ. Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ: 26 tháng 10.  

117. Vinh Sơn Ðỗ Yến, linh mục Ða Minh; sanh khoảng 1764-65 tại Trà Lũ, Nam Ðịnh; chết 30 tháng 6, 1838, tại Hải Dương. Sau khi trở thành linh mục Ða Minh năm 1808, ngài hoạt động trong cánh đồng truyền giáo cho đến khi chịu tử đạo. Từ khi có sắc chỉ cấm đạo năm 1832, ngài sống ẩn náu trong 6 năm và tiếp tục sứ vụ trong vòng bí mật. Cuối cùng ngài bị phản bội và bị xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1900.

xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam ban cho dân tộc Việt Nam chúng con được can đảm sống đức tin như các Thánh.