Sơ Lược Tiểu Sử:

 11. Gioan Baotixita Cỏn, lý trưởng, có vợ, thầy giảng; sanh 1805 tại Kẻ Bàng, Nam Ðịnh; chết 8/11/1840, tại Bảy Mẫu. Xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ: 7 tháng 11

12. Jean-Charles Cornay Tân, linh mục; sanh 1809 tại Loudun (Poitiers), Pháp; chết 20/9/1837, tại Sơn Tây. Cha Tân hoạt động tại Bắc Phần như một giáo sĩ của Hội Thừa Sai Balê. Cha bị bắt tại Bản-no. Cha bị vợ của một tướng cướp gài bẫy, người này dấu vũ khí trong thửa ruộng cha cầy cấy. Từ đó cha bị nhốt trong cũi trong ba tháng, và chỉ được thả ra để đi trói buộc và tra tấn. Ngài bị bắt phải hát cho các tên cai ngục, vì giọng của ngài rất hay. Ngài bị phânthay làm nhiều mảnh. Phong Á Thánh 1900. Ngày lễ: 8 tháng 2.    

13. Stêphanô-Théodore Cuénot Thể, Giám Mục; sanh 1802 tại Beaulieu, Besançon, Pháp; chết 14/11/1861, tại Bình Ðịnh. Ngài được thụ phong limh mục, trở thành một giáo sĩ của Hội Thừa Sai Balê, được gửi sang Trung Phần. Năm 1833 được bổ nhiệm làm Ðại Diện Tông Tòa Miền Tây và tấn phong Giám Mục Singapore. Ngài cố gắng hoạt động, thành lập 3 giáo hạt trong thời gian 25 làm giám mục. Khi việc đàn áp gia tăng, ngài được ẩn náu an toàn cho tới khi phải lộ diện để tìm nước uống và bị bắt. Ngài chết rũ tù vì bệnh kiết lỵ ngay trước khi có lệnh xử tử ngài. Phong Á Thánh 1909. Ngày Lễ: 8 tháng 2    

14. Matthêô Nguyễn Văn Ðắc (Phượng), trùm họ, thầy giảng; sanh khoảng 1801 tại Kẻ Lai, Quảng Bình, chết 26/5/1861, gần Ðồng Hới. Cũng như Anrê Dũng-Lạc, ngài dùng tên hiệu. Bị xử trảm (chết chém). Phong Á Thánh 1909.    

15. Phêrô Ða, thầy giảng; sanh tại Ngọc Cục, Nam Ðịnh; chết 17/6/1862, tại Nam Ðịnh. Ngài bị thiêu sống trong một lều tre cùng với hai người dân chài Công Giáo. Phong Á Thánh 1951.    

16. Ðaminh Ðinh Ðạt, binh sĩ; sanh1803 tại Phú Nhai, Nam Ðịnh; chết 18/7/1838, tại Nam Ðịnh. Khi người ta khám phá rằng ngài là một người tân tòng, ngài bị bắt, bị tước bỏ chức vụ vị đức tin công giáo. Ngài có thể thuộc Dòng Ba Ða Minh. Chịu xử giảo (thắt cổ) chết. Phong Á Thánh 1900.    

17. Gioan Ðạt, linh mục; sanh khoảng 1764 tại Ðồng Chuối, Thanh Hóa; chết 28/10/1798. Thánh Ðạt, được mô tả là một người rất bình thản, được thụ phong linh mục năm 1798. Sau khi bị bắt vì tội làm linh mục bất hợp pháp, ngài bị tù 3 tháng, rồi bị xử trảm (chém đầu). Ngài và thánh Emmanuel Triệu là những vị linh mục triều đầu tiên mà cuộc tử đạo đã được ghi chép và lưu trữ. Phong Á Thánh 1900.    

18. Tôma Nguyễn Văn Ðệ, thợ may, Dòng Ba Ða Minh; sanh 1810, tại Bồ Trang, Nam Ðịnh, chết 19/12/1839, tại Cổ Mễ . Ngài bị xử giảo (thắt cổ) chết cùng với bốn người khác, trong đóa có Ðaminh Uy, Phanxicô Xaviê Mầu, Stêphanô Vinh và một người khác vì che dấu các vị thừa sai. Phong Á Thánh 1900.    

19. Clêmentê Ignaxiô Delgaho Hy; Giám mục Ða Minh; sanh khoảng 1761 tại Villa Felice, Tây Ban Nha; chết 21/7/1838, tại Nam Ðịnh. Ða số những tin tức về thánh Hy xuất xứ từ bản án tử hình của ngài. Sau khi được tấn phong là thừa sai Ða Minh, ngài được sai đến đây, nơi ngài hoạt động vất vả trong 50 năm và được bổ nhiệm làm Ðại Diện Tông Tòa Miền Tây. Ngài trốn trong làng Kien-lao cho đến khi bị phản vì sự tra khảo khéo léo một đứa bé trai. Ngài bị nhốt trong cũi. Khi bi tra khảo, ngài trả lời thành thật mọi sự về ngài, nhưng không tiết lộ gì về các người giáo dânkhác. Vì thế ngài đã chết rũ tù năm 76 tuổi vì bệnh kiết lỵ và đói ăn trong một cái cũi bị phơi nắng hè và bị người qua lại xỉ nhục. Sau khi ngài chết binh sĩ chặt đầu ngài và ném thi thể xuống sông, dân đánh cá vớt được xác ngà và được Ðức Cha Jerome Hermosilla chôn cất tử tế. Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ: 11 tháng 7.    

20. Giuse Maria Diaz Sanjuro An, Giám mục Ða Minh, Ðại Diện Tông Tòa; sanh 1818 tại Santa Eulalia de Suegos, Lugo, Tây Ban Nha; chết 20/7/1857 tại Nam Ðịnh. Cha mẹ ngài cho rằng ngài phải có một cuộc đời sự nghiệp văn chương thành công rực rỡ. Ngài lén vào tu dòng Ða Minh tại Ocađa, Tây Ban Nha. Nơi đây ngài được huấn luyện để đi truyền giáo. Ngài khấn dòng tại Cadiz trước khi lên đường đi mất 120 ngày để tới Manila, nơi đây ngài được bổ nhiệm làm giáo sư tại Ðại Học Thánh Tôma. Sau sáu tháng ngài vào Việt Nam ban đêm, cải trang bằng y phục của dân chúng cùng với Melchoir Garcia-Sampedro. Ngay sau đó, ngài được bổ nhiệm làm Ðại Diện Tông Tòa Miền Trung với cha Garcia là phụ tá. Mặc dầu giáo dân cố gắng che dấu hai ngài trong khi việc bắt bớ gia tăng, ngài bị bắt trong một cuộc ruồng bố bất thần, và bị giam hai tháng, trong thời gian này ngài tuyên bố tha thứ cho những người phản bội ngài. Ngài bị xử trảm (chém đầu) và xác bị ném xuống biển. Phong Á Thánh 1951.

xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam ban cho dân tộc Việt Nam chúng con được can đảm sống đức tin như các Thánh.