ĐAU KHỔ SỰ CHẾT - Hàn Cư Sĩ
Ngày đăng: 24/08/2016 | Số lần xem: 600 |
Alzheimer's patient in an emergency room near death while suffering from
pneumonia
Đau khổ và sự chết, một thực tại hiển nhiên mà không ai dám chối căi, nhưng
tâm lư chung thì ai cũng sợ và muốn quên nó. Chân lư hiển nhiên nhất lại là
chân lư dễ quên nhất, để đến khi con người đối diện với sự chết th́ mới giật
ḿnh tỉnh thức, như một khẩu ngữ trong dân gian: “chưa thấy quan tài th́ chưa đổ
lệ”. Đau khổ và Sự chết gắn liền với nhau như h́nh với bóng, nó là mối dây hệ
lụy với nhau như nhân với quả hoặc như quả với nhân. Vậy con người nói chung
nh́n vào đau khổ và sự chết như thế nào, nó có ý nghĩa và giá trị ra
sao, cũng như con người cần phải chấp nhận đau khổ và sự chết bằng
cách nào?
NHẬN THỨC CHUNG CỦA CON NGƯỜI
Với cách nh́n nhận thông thường, chết là một cuộc vĩnh biệt đơn độc và hăi
hùng nhất. Không ai có thể đau khổ và chết thay cho nhau, cho dù đó là người
thân yêu nhất. Các triết gia xưa nay đều mải miết đi t́m lời giải đáp cho câu
hỏi: Con người từ đâu đến và đi về đâu? Tại sao con người lại đau khổ và phải
chết? Nhiều triết thuyết ra đời để lư giải cho câu hỏi này. Những triết thuyết
mang chữ “duy” không giải đáp rốt ráo về nguyên lư của sự chết. Những thuyết
không tìm ra ý nghĩa đích thực của đau khổ và sự chết thì thấy cuộc
đời chỉ toàn bế tắc, có muôn vàn mâu thuẫn và xáo trộn. Khi con người không
nhận thức đúng đắn về nó th́ tất nhiên họ chỉ lao vào danh lợi, lao vào
sự tranh chấp để được thỏa mãn những khát vọng thống trị và hưởng thụ,
hoặc khinh thường sự sống đi đến sự khắc kỷ lệch lạc mất quân bình.
Dù là tổng thống, là tỉ phú hay ăn mày thì cũng chỉ là kiếp người, để
khi đối diện với sự chết cũng phải run giùng sợ hăi trở về tay không với bao
tiếng khen chê, tốt xấu hay đáng nguyền rủa.
Đời được gắn liền với nước mắt:”Thoắt sinh ra th́ đà khóc choé / Trần có vui sao
chẳng cười kh́” (Nguyễn Công Trứ) – ngay từ lúc sinh ra là đã phải đối
diện với đau khổ rồi. Có lẽ không có sách nào suy xét, phân tích kỹ
lưỡng và sâu sắc về đau khổ của con người cho bằng “Tứ Diệu Đế” trong
kinh điển nhà Phật, nó xoay quanh một kiếp sống trong
“Sinh-lão-bệnh-tử”, để rồi phải kết luận bằng một câu bất hủ: “Nước
mắt chúng sinh nhiều hơn đại dương”. Con người luôn luôn gặp đau khổ
hằng ngày, trong mọi nơi mọi lúc, và đau khổ tột cùng là sự chết.
Đau khổ do mình bị lầm lỡ, do con người làm khổ lẫn nhau, do không
được như ý muốn, do bị chia lìa người thân yêu, do tính toán thất bại,
thất vọng, do bị hiểu lầm, bị phản bội, do tai nạn, do Tham-Sân-Si
hoành hành… Đau khổ do nghèo đói, bệnh tật, thiên tai, động đất, chiến
tranh, do quy luật sinh tồn, luật đào thải, do muôn vàn những khắc
nghiệt của nhiều sự dữ đang hiện diện.
Có sống được trăm tuổi cũng chẳng ra sao: Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy / cảnh
phù du trông thấy cũng nực cười (C.B.Quát). Như Hoàng đế Napoleon bị đày ở đảo
St. Helena, chỉ có con rùa làm bạn với ông, cuối đời ông thốt lên: “Ôi nước Pháp
! Ôi Josephine”. Đau khổ dẫn ông về cơi ngàn thu. Cuộc đời và sự nghiệp vĩ
đại của ông đă tiêu ma. Lev Tolstoi, nhà qúy tộc, đại văn hào Nga, chết trên băi
tuyết, trong túi ông có mảnh giấy ghi câu: “Đừng để tôi gặp mặt vợ tôi”. Ôi thảm
thương biết bao! Cũng như vua Salômôn, một Hoàng đế giàu sang, quyền thế, khôn
ngoan và được toàn dân kính trọng, khi về cuối đời đă phải thốt lên: “phù vân,
quả là phù vân, tất cả chỉ là phù vân – Vanitas vanitatum, ommia, vanitas”(GV 1,
2-3). Salômôn đă cảm nghiệm được cuộc đời chỉ có đau khổ và tất cả chỉ
là ảo vọng, ông đă “ngộ” ra chân lư đời đời.
Xưa nay, con người tìm đủ cách để chấp nhận hoặc để giải thoát đau
khổ. Đạo gia Á đông đã thấy quy luật tổng quát và tương đối: “Hữu sinh tất
hữu diệt; Hữu thành tất hữu huỷ”, và “Thuận thiên tri thiên mệnh”. Đức Phật
muốn giải thoát chúng sinh qua biển khổ bằng cách tiêu diệt mọi ước
muốn (diệt dục) để vào Niết Bàn, vì Ngài thấy rằng sự vật, sự việc ở đời
chỉ là “giả huyễn”, để rồi sinh sinh tử tử nối tiếp nhau trong một đại dương đầy
nước mắt do bị nô lệ vào dục vọng. Trang tử nh́n cuộc sống hư hư thực thực,
ông thấy ḿnh là bướm rồi lại thấy bướm là ḿnh. Khi vợ chết, Trang tử lấy đàn
ra gảy, ông thấy có cũng như không và không cũng như có. Lăo tử lại thấy cuộc
sống đầy rẫy những mầm loạn trong cái mê muội, nên ông chống lại mọi ư chí đấu
tranh để chủ trương một đạo “vô vi”, t́m đến một lẽ sống tự nhiên về đạo an
tịnh, để sống cũng như chết, mọi sự không thể tác động để gây đau khổ cho con
người. Còn Khổng tử thì chủ trương một lối sống thực tế rất nhân bản và cao
đẹp, một lối sống quân tử, vì “quân tử bất ưu bất cụ” (người quân tử
không buồn lo, không sợ) và “quân tử thản đãng đãng” (người quân tử có
sự bằng an thanh thản lồng lộng), nhờ đó tạo nên một trật tự mang lại an
hoà cho con người và xă hội. Hiền triết Sorcates suốt đời tranh đấu cho sự
thật, mong muốn cho con người thoát khỏi mê muội bằng cách “hãy tự
biết mình”, ông rất thản nhiên trước đau khổ và sự chết. Ông t́nh nguyện
(bị ép) uống thuốc độc rồi nh́n cái chết đến từ từ như nh́n một công việc đến
hồi kết thúc phải có trong cái quy luật của nó.
Và dĩ nhiên, c̣n nhiều cá nhân, tín ngưỡng, tôn giáo từ đông tây kim cổ có những
quan điểm hoặc niềm tin khác nhau về đau khổ và sự chết qua những ư niệm với
nhăn quan riêng biệt.
ĐAU KHỔ VÀ SỰ CHẾT CÓ Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ KHÔNG
Con người đã tốn rất nhiều nước bọt và giấy bút để bàn về vấn đề
này, nhưng đề tài vẫn không có đoạn kết. Xét rằng con người hầu như
bất lực để hiểu thấu hay ít ra cũng không thể nói về nó một cách
rốt ráo, dù rằng qua lịch sử, nhiều triết thuyết, nhiều tôn giáo đã
tung hứng đủ lý lẽ để lý giải về vấn nạn này. Con người chỉ biết
rằng nó đang hiện diện, như một chân lý không thể chối cãi. Người ta
chưa biết rằng hai với hai là bốn từ đâu mà có, hoặc như bóng tối
xuất hiện vì không có ánh sáng, đau khổ hiện diện vì thiếu hạnh
phúc, sự dữ có mặt vì vắng bóng sự thiện… Nào ai có thể chứng minh
được nó từ đâu mà có? Nó xuất hiện với mục đích gì? Có phải để
tàn phá hay hủy diệt, hoặc để tồn tại và phát triển? Để làm quân
bình như trong quy luật đào thải? Và muôn vàn vấn nạn trong những
chuyện tương tự.
Con người nhận thấy rõ rằng, quy luật sinh tồn, quy luật đào thải là
vô cùng khắc nghiệt, sinh muôn vàn đau khổ và sự chết cho mọi sinh
vật. Ngay cả vũ trụ được ổn định cũng nhờ tiếng nổ vĩ đại làm vỡ
tung khối hỗn mang (Big Ben), và thiên nhiên cũng chẳng khác: Xuân sinh, Hạ
trưởng, Thu liễm, Đông tàn. Mỗi bước chuyển tiếp là một cơn đau đớn, trong cái
đă đến, đang đến và sẽ đến. Từ vi sinh vật, côn trùng, thú vật cho tới con
người đều nằm trong quy luật sát phạt này. Nhưng đặc biệt, ai cũng
nhận thấy rằng quy luật này rất hợp lý và hữu ích, vì nếu chỉ có
yên lặng trong sự tĩnh mịch thì đồng nghĩa với sự chết, chẳng sản
sinh ra được điều gì. Cá lớn nuốt cá bé, sinh vật này giết sinh vật
kia để sống, nhờ thế hệ sinh thái mới được quân bình. Ai cũng thấy
rằng, muốn đạt được điều gì tốt, phải vượt qua những khó khăn thử
thách. Mỗi cá nhân muốn đạt được ước mong nào thì buôc phải trải qua
gian nan thử thách, sau đó mới gặt hái được hạnh phúc của điều mà
mình đã trả giá (ai nên khôn không khốn một lần). Người giàu có,
người thành công hay thành đạt thì buộc phải chiến đấu qua gian khổ.
Thế giới được nhiều thành quả và tốt đẹp như hôm nay, chính nhờ vào
bao cố gắng, bao gian nan, bao đau khổ của nhiều cá nhân, của những
cộng đồng tập thể qua nhiều thế hệ…
Nếu không có đau khổ, chắc rằng con người không cần cải thiện để bất
chấp tất cả, sẽ tự bị hủy diệt, vì đâu còn lý do để khắc phục và
xây dựng nữa. Nhất là không có đau khổ và sự chết thì con người sẽ
mặc sức sống theo thú tính để thỏa mãn mọi ngạo mạn của mình, tất
cả dục vọng nơi con người sẽ ngự trị, và như thế con người trở thành
nô lệ, tàn sát lẫn nhau, và như thế lại có sự nghịch lý không thể chấp
nhận được.
Song song với nó là những dục vọng nơi con người, mà nhà Phật cho
rằng đây là nguyên nhân chính tạo nên mọi nghiệp, mọi kiếp. Những thất
tình (hỉ, nộ, ái, ố, ai, cụ, dục), lục dục-lục tặc (sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp) dẫn con người đến đau khổ và sự tiêu ma.
Quy luật sinh tồn và đào thải từ đâu mà ra, cũng như dục vọng nơi con
người từ đâu mà có? Có thể nói đó là một bí nhiệm. Bí nhiệm như
ánh sáng và bóng tối từ đâu. Chỉ biết chắc rằng quy luật mâu thuẫn
luôn phải có thì mới sản sinh ra được điều kỳ diệu, nó nương tựa và
đun đẩy nhau để phát triển (âm thịnh dương suy và dương thịnh âm suy).
Đối cực này giải nghĩa và làm rõ cho đối cực kia chứ không thể lý
giải hơn được. Triết lý Á đông nhận rằng đây là sự khiếm khuyết của
trời đất nhưng lại mang được ý nghĩa để chấp nhận cặp đối lập trong
niềm lạc quan tích cực. Nếu đứng ở góc độ lý trí con người, thì
Đức Phật được xưng tụng là đại trí, Khổng tử là “vạn thế sư biểu”,
Lão tử có trí huệ nhìn xuyên suốt được mọi quy luật để thấy được
cái “Đạo” là nguyên ủy và cứu cánh của mọi sinh vật, dù rằng bản
thể của “Đạo” chưa ai giải thích và hiểu thấu được… Con người suy tư
chỉ biết rằng đau khổ và sự chết bởi chính cặp mâu thuẫn mà ra, chứ
không nhất thiết phải giải thích, càng không thể giải thích hơn được
nữa, “ra sống thì vào chết; vào chết thì ra sống” (Lão) chính là
vậy. Cũng như “Vật cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu” (kinh
dịch) là như thế.
KITÔ GIÁO CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ VÀ SỰ CHẾT BẰNG CÁCH NÀO
Như trên đã đề cập đến sự nhận thức và quan điểm của con người xuyên
qua những cảm nhận và lý lẽ trong triết lý, trong đạo học cũng như
trong những sắc thái của tôn giáo Á đông. Dù sao ta cũng nên nhìn nhận
tính chất ưu việt từ trong các tôn giáo, vì chỉ có tôn giáo mới có
đủ uy tín và thế giá để xác nhận những vấn đề thuộc tâm linh như việc
chấp nhận đau khổ và sự chết bằng niềm tin nào đó, nhờ vào đấy biến
nó thành niềm vui cho cuôc sống, còn hơn thế nữa, là tìm được hạnh
phúc trong chính cái đau khổ và sự chết.
Dù chủ quan hay khách quan (theo niềm tin tự nhiên hay lý trí phân tích),
nếu tìm hiểu kỹ lưỡng, ta nhận thấy rằng, đức tin trong Kitô giáo rất
coi trọng giá trị của đau khổ và sự chết. Coi đây là một ân huệ, một
phúc lộc của Thiên Chúa ban cho con người. Đau khổ và sự chết là hậu quả
của tội lỗi: “lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta là cái chết” (Rom 5,
12).Nhưng chính nhờ đau khổ, cái chết và sự phục sinh, Đức Kitô đă biến nó
thành hy vọng, thành niềm vui, thành niềm hoan lạc trong sự sống đời đời cho tất
cả nhũng ai theo Người: “Ai muốn theo thầy, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình mà theo” (Mt, 24). Trong niềm tin, qua đau khổ và sự
chết, chắc chắn con người sẽ được vinh quang và hưởng phúc lạc đời
đời, vì “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn
trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác. Ai yêu quý mạng sống minh, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng
sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.(Ga
12,24-25).Trong cựu ước, ông Giop là người đau khổ tột cùng khó ai có
thể chịu đựng được, nhưng ông vẫn vui lòng chấp nhận nó trong niềm tin
yêu vững bền: “Thân trần truồng sinh ra từ ḷng mẹ. Tôi sẽ trở về đó cũng trần
truồng. Chúa đă ban cho, Chúa lại lấy đi. Xin chúc tụng danh Chúa (G 1:21), và
kết quả là ông gặt hái được những thành quả mỹ mãn không ngờ được.
Bởi vậy một trong những điều kiện để đo lường sự thánh thiện trong
đạo Chúa là xem người đó có bằng lòng chịu đau khổ hay không. Thiếu
điều kiện này là chưa thể bảo đảm được sự thánh thiện.
Đau khổ và sự chết không ai có thể trốn tránh và chống lại nó, nếu chống
lại, con người sẽ trở nên trống rỗng trong mọi sự, vì:“Thật thế, lời
rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên
đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì
đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa” ( 1 Cr 1, 18). Khi chống lại đau khổ,
con người chỉ t́m cách ngủ yên trong cái vỏ ốc để bảo vệ cho ḿnh được thoải
mái, tránh mọi phiền phức bất cứ từ đâu đến. Lúc đó con người biến thành ích kỷ
vô cùng, là điều nguy hiểm dẫn con người đến sự hư mất.
Người Kitô hữu dễ dàng chấp nhận những đau khổ và sự chết nhờ tin vào Đức Kitô
và biết được mục đích cuộc sống ở trần gian này để làm ǵ (Sinh Kư Tử Quy là như
vậy). Nếu con người bám vào tiền tài, danh vọng và chạy theo nó th́ sẽ mắc vào
sự mù tối (vô minh) tai hại, lúc đau khổ và thần chết đến, họ sẽ vô cùng hoảng
hốt kinh hăi.
Sự sống đời đời nếu sánh với đời này th́ như thánh Giacôbê nói: “Đời người chỉ
như một chút hơi nước bay đi rồi biến mất”. Bởi vậy không lạ ǵ các thánh rất
coi thường danh lợi thế gian, các ngài coi đau khổ và sự chết đời này là một
phương tiện cần thiết quư báu để đến được cơi hoan lạc viên măn. Thật cũng không
lạ ǵ có bao vị thánh sung sướng chịu chết v́ đạo, các ngài biết rơ”Quê hương
chúng ta ở trên trời”(Pl3,20). V́ thế, chết là thay đổi chứ không mất đi, được
biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác tốt hơn, hoàn hảo hơn, có được
hạnh phúc bất diệt : “Tôi nói anh em biết mầu nhiệm này là, không phải tất cả
chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi”(1 cr 15, 51).
Đức tin của người Kitô hữu vượt trên lẽ thường t́nh đến nỗi người ta nhận thấy
một sự nghịch lư : “khi Chúa thương gọi con về, ḷng con hân hoan như trong một
giấc mơ”. Đó là nhờ Đức Kitô đă dành cho những ai tin và sống trong người. Đau
khổ và sự chết trở thành một bí nhiệm nên “bất khả tri”, như bác
học Newton nói: “Điều tôi biết như giọt nước, điều tôi chưa biết như
đại dương”. Thiên Chúa đă gieo vào ḷng con người những mối cảm thức tư duy để
ít nhiều con người có thể cảm nghiệm được về đau khổ mang lại ơn ích và sinh
ơn cứu rỗi cho họ, dù rằng nó khá mơ hồ và mênh mang. Khi cảm nhận được
giá trị của nó th́ đau khổ và sự chết trở thành vui mừng, v́ được
thanh lọc nên tinh tuyền và là giờ được huởng kiến Thiên Chúa là đấng toàn
năng, toàn thiện, toàn mỹ, toàn ái, gốc của mọi hạnh phúc. Thánh nhân đều nhận
thấy như thế, như Thánh Têrêsa Avila mỗi khi nghe thấy đồng hồ đổ một giờ qua
đi là ngài cảm thấy sung suớng v́ giờ chết lại gần hơn để về với Chúa. Thánh
Têrêsa Hài đồng Giêsu cũng vậy, ngài nói:”với ư nghĩ được chết, tôi sung sướng
lắm”.
Nếu con người nhìn nhận được giá trị, và nhất là có được niềm tin
vào một Đấng là nguồn của sự thiện, là cứu cánh thông qua đau khổ
và sự chết, thì chắc rằng con người sẽ được thanh thản trước cuộc
sống trong bất cứ hoàn cảnh hay tình huống nào. Khi đó con người đã
được giải thoát và tìm được hạnh phúc ngay từ cuộc sống đời này
rồi. Nếu không nó sẽ làm cớ vấp phạm cho con người, để rồi đau khổ
trở thành án phạt, từ đau khổ này chồng chất lên đau khổ khác, cho
đến lúc phải quằn quại trong sự chết để chấm dứt một kiếp sống nô
lệ và đọa đày.
Chung quy, người có đức tin và theo chân Đức Kitô th́ dễ dàng đón nhận đau khổ
và sự chết bằng niềm lạc quan và hy vọng, trong an b́nh và thanh thản.